Các Đấng Tử Đạo Của Nam Kỳ
Last updated
Was this helpful?
Last updated
Was this helpful?
Các Đấng Tử Đạo Của Nam Kỳ
----
Duc Trung Vu, CSsR dịch từ cuốn SAINTLY CHARACTERS RECENTLY PRESENTED FOR CANONIZATION, xuất bản năm 1859 tại New York, trang 333-338.
------
Tại Nam Kỳ, một cuộc đàn áp khốc liệt đang hoành hành, khi Egidius Delamotte, Giám quản các tỉnh phía Bắc, rơi vào tay kẻ thù. Ngài đã quyết định rời làng Nhu-ly, nơi ngài trú ẩn để tránh chúng, và chuẩn bị lên thuyền cho mục đích này, thì bị bắt làm tù nhân, và gần như bị đánh đến chết, vào ngày 14 tháng 4 năm 1840. Quan phủ giao vụ án lên Tòa Án Hoàng Gia, nơi Cha Delamotte bị chuyển đến với tư cách tù nhân. Ngài đã phải chịu những hình phạt tàn bạo nhất trong khoảng thời gian bốn mươi ngày. Khi bị đưa ra trước thẩm phán, ngài được lệnh dẫm lên thánh giá. Điều này ngài từ chối làm. Các binh lính cố gắng ép buộc ngài, nhưng họ không thể di chuyển ngài khỏi nơi ngài đứng. Sau đó họ đánh đập ngài dữ dội đến nỗi người ngài đầy máu, và trong hai giờ họ cố gắng ép ngài chối Chúa Cứu Thế của chúng ta, bằng cách xé nát da thịt của ngài bằng kềm sắt. Khi họ nhận ra rằng sự tàn nhẫn của họ không có tác dụng gì, họ lại ném ngài vào ngục. Họ quyết định giết ngài từ từ. Sau khi sử dụng nhiều hình phạt tàn bạo, họ đã làm giảm sức khỏe của người tôi tớ Thiên Chúa xuống mức cùng cực vào cuối ba mươi ngày. Nhà vua, muốn kéo dài nỗi đau khổ của ngài, ra lệnh tháo xiềng nặng mà ngài bị trói. Điều này ngài dường như không muốn cho phép binh lính làm, vì ngài nói tình yêu của Chúa Kitô khiến nó trở nên nhẹ nhàng. Sau một thời gian ngắn, ngài bị bệnh do những nỗi đau khổ gây ra. Ngài sống thoi thóp cho đến ngày 3 tháng 9, khi ngài qua đời, tỏ ra với tất cả mọi người là hình mẫu trung thành và kiên định.
Cha Philip Minh sinh năm 1816, tại Cai Mong, tỉnh Vine Long, miền Tây Nam Kỳ. Ngài mồ côi cả cha lẫn mẹ khi còn nhỏ, và người chị gái đã dạy ngài về tôn giáo và lòng đạo đức. Khi lên 13 tuổi, Đức Giám mục nhận ngài vào chủng viện. Sau đó, ngài được gửi đến trường dòng Tên, trên đảo Pulo Penang, nơi ngài theo học nhiều năm. Khi trở về Nam Kỳ, ngài được truyền chức thánh bởi Giám mục Mettellopolitanus, Giám quản Tông Tòa của vương quốc. Năm 1846, ngài được thụ phong linh mục, và trong bảy năm đã tận tâm hướng dẫn đàn chiên mình. Ngài được trao nhiệm vụ cử hành Bí Tích Thêm Sức.
Ngài rơi vào tay những kẻ ngoại đạo khi đang thi hành công việc thiêng liêng này. Có vẻ như ngài đã bị phản bội bởi một trong những người Ki-tô hữu, đã cung cấp thông tin cho lính về nơi ở của ngài. Bảy giáo lý viên bị bắt cùng với ngài và được đưa đến phủ tỉnh Tongho. Ngài được lệnh giẫm lên Thánh Giá. Ngài từ chối làm điều đó, nói rằng "không thể làm điều các ngàii yêu cầu, vì đạo của tôi dạy tôi phải tôn kính Thánh Giá này. Tôi luôn luôn như vậy, và bây giờ không thể làm theo yêu cầu của các ngài." Lính được lệnh buộc ngài làm điều đó, nhưng họ không thể thành công trong việc khiến ngài giẫm lên Thánh Giá.
Sau đó, chúng yêu cầu ngài nói rằng mình không phải là linh mục, và một số phẩm phục thiêng liêng được Giám mục giao cho ngài chăm sóc chứ không được ngài sử dụng. Ngài cũng từ chối làm điều đó, vì như vậy là nói dối. Sau đó, ngài được lệnh cùng các giáo lý viên bị đày. Vào ngày 10 tháng 7 năm 1853, nhà vua ra một bản án mới, kết án tử hình ngài. Ngài đón nhận nó với niềm vui, và viết thư cho Giám mục để xin một linh mục đến nghe xưng tội trước khi thi hành án.
Khi thời gian đến gần, ngài nói với các bạn tù rằng, Chúa đã quyết định ngài sẽ hy sinh mạng sống để tôn vinh Thánh Danh Ngài, và ngài sẽ vui vẻ vâng theo ý Chúa. "Trước khi rời xa anh em," ngài nói, "tôi cầu xin anh em, hỡi những người bạn của tôi, cho dù có chuyện gì xảy ra, anh em vẫn sẽ kiên định trong đức tin của mình và đặt niềm tin vào sự trợ giúp thiêng liêng, chắc chắn sẽ được ban cho anh em." Trên đường đến nơi hành, ngài sốt sắng đọc kinh Mân Côi của Đức Trinh Nữ đến nỗi thu hút sự chú ý của mọi người.
Sau quãng đường đi bộ dài hai tiếng, họ đến địa điểm được chọn để làm nơi tử đạo của ngài. Tại đó, ngài quỳ gối, tái khẳng định sự hy sinh của mình cho Chúa. Một tấm bảng được đặt trên vai ngài, trên đó có ghi: "Minh, kẻ cầm đầu tà giáo, bị chém đầu và thủ cấp bị ném xuống sông để làm gương cho kẻ khác." Tóc ngài sau đó được buộc trên đỉnh đầu, và hai tay bị trói lại phía sau lưng. Ngài cầu xin Đức Mẹ Maria giúp đỡ và xin Thiên Chúa tha thứ cho mình, một kẻ tội lỗi. Sau đó, ngài dịu dang nói chuyện với một người Ki-tô hữu gần đó, và đầu ngài bị chặt đứt chỉ bằng một nhát kiếm. Lính tráng lập tức bỏ chạy, như thể họ lo sợ rằng Chúa sẽ trừng phạt họ vì đã giết hại một người vô tội.
Những người Ki-tô hữu có mặt đã thu gom máu đã đổ, và sau khi lấy được thủ cấp, họ mang cả thi thể và thủ cấp đến làng Cai-Nhum gần đó. Vào ngày hôm sau, thi thể được chuyển đến thị trấn Cai-Mong, và sau khi các nghi lễ tôn giáo được thực hiện, ngài được an táng trong nhà nguyện, nay đã đổ nát.
Không hề thiếu dấu hiệu cho thấy Chúa tôn vinh những chiến thắng vinh quang của các vị tuyên xưng Ngài. Mặc dù người Ki-tô hữu ở Nam Kỳ tôn kính ngài như một vị tử đạo, mặc dù họ giữ gìn máu của ngài như một báu vật quý giá và mong muốn ngài được phong chân phước, nhưng Giáo hội không cho phép bất cứ nghi thức nào cho thấy việc tôn thờ công khai, trái với sắc lệnh của Urban VIII.