P07-Chấp thủ
Chánh Tri kiến P7 - Chấp thủ
Kinh chánh tri kiến gồm 16 phần, chúng ta đã lần lượt tìm hiểu từ phần 1 đến phần 6 ở các bài trước. Trong phần 7, Đức Phật giảng về chấp thủ như sau:
{Mọi người nhớ đọc phần 1,2,3,4,5,6 mình đã up nhé}
Chư Hiền, thế nào là thủ, thế nào là tập khởi của thủ, thế nào là đoạn diệt của thủ, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của thủ?
1. Thế nào là thủ
Chư Hiền, có bốn thủ này: dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luận thủ.
Giải nghĩa:
Đức Phật nói về bốn loại "thủ" (upādāna - chấp thủ), tức là bốn dạng bám víu vào các đối tượng khiến con người bị trói buộc vào luân hồi sinh tử.
1) Dục thủ (Kāmupādāna) – Chấp vào dục lạc: Đây là sự dính mắc vào các dục lạc thế gian, bao gồm sắc đẹp, âm thanh, mùi hương, vị ngon, xúc chạm dễ chịu. Khi một người bám víu vào các khoái lạc giác quan, họ bị cuốn theo tham ái, dẫn đến tái sinh liên tục trong cõi dục giới (như cõi người, trời dục giới).
Ví dụ: Người thích ăn ngon, mặc đẹp, hưởng thụ xa hoa, bị ràng buộc bởi lòng tham dục. Người đắm chìm trong các thú vui thể xác như tình dục, rượu chè, cờ bạc.
Để đoạn trừ dục thủ, người tu tập phải thực hành thiền định để thấy rõ bản chất vô thường, khổ, vô ngã của dục lạc.
2) Kiến thủ (Diṭṭhupādāna) – Chấp vào quan điểm sai lầm: Đây là sự chấp vào những quan điểm, tư tưởng sai lầm mà không có trí tuệ để quán xét đúng sai. Người chấp vào kiến thủ thường bảo thủ, không chịu thay đổi suy nghĩ, bám víu vào tri kiến của mình dù nó sai lầm.
Ví dụ: Tin rằng chết là hết (đoạn kiến) hoặc linh hồn tồn tại vĩnh viễn (thường kiến). Chấp vào tà kiến như cầu cúng thần linh để giải nghiệp thay vì tự sửa đổi bản thân. Tin rằng khổ vui là do số mệnh định sẵn, không tin vào nhân quả.
Để đoạn trừ kiến thủ, người tu tập cần thực hành chánh tri kiến (thấy rõ nhân quả, vô thường, vô ngã).
3) Giới cấm thủ (Sīlabbatupādāna) – Chấp vào giới cấm sai lầm: Đây là sự chấp chặt vào các giới luật hoặc nghi lễ sai lầm, nghĩ rằng chỉ cần tuân theo là có thể giải thoát. Thực chất, chỉ giới luật đúng đắn mới dẫn đến giải thoát, còn nếu chấp vào những điều phi lý thì chỉ là mê tín.
Ví dụ: Cúng sao giải hạn, cầu tài lộc mà không hành thiện. Bắt buộc phải ăn chay để giải thoát, nhưng không tu tâm. Tin rằng chỉ cần làm lễ tẩy rửa là sạch tội, nhưng vẫn tiếp tục làm điều bất thiện.
Để đoạn trừ giới cấm thủ, cần hiểu rõ giới luật trong đạo Phật là để chuyển hóa tâm, không phải để chấp chặt hình thức.
4) Ngã luận thủ (Attavādupādāna) – Chấp vào bản ngã: Đây là sự chấp vào ý niệm "cái tôi", tin rằng có một linh hồn hay bản ngã bất biến. Người chấp vào ngã luận thủ thường có tâm ngã mạn, cố chấp vào "cái tôi" của mình, dẫn đến tranh cãi, tham lam, sân hận.
Ví dụ: Tin rằng có một linh hồn vĩnh cửu bất diệt (ngã thường hằng). Chấp vào danh vọng, địa vị, tài sản và nghĩ đó là bản thân mình. Nghĩ rằng mình là trung tâm của vũ trụ, không chấp nhận sự vô thường.
Để đoạn trừ ngã luận thủ, người tu tập cần phải thực hành quán vô ngã, thấy rằng cái tôi chỉ là một tập hợp duyên sinh, không có tự tính cố định.
2. Tập khởi của thủ, đoạn diệt của thủ
Từ tập khởi của ái, có tập khởi của thủ; từ đoạn diệt của ái, có đoạn diệt của thủ;
Giải nghĩa:
Khi Ái (tham muốn, khát khao) sinh khởi, nó kéo theo Thủ (sự bám víu, nắm giữ chặt chẽ). Khi Ái diệt, tức là không còn ham muốn, thì Thủ cũng không còn, dẫn đến giải thoát khỏi luân hồi.
Ái (Tanha) – Tham muốn, khao khát: là sự tham muốn, khao khát hưởng thụ những điều dễ chịu hoặc mong muốn tránh né điều khó chịu. Có ba loại ái:
1) Dục ái (kāmatanhā): Tham muốn dục lạc như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng.
2) Hữu ái (bhavatanhā): Khao khát tiếp tục tồn tại, sợ chết, mong muốn kiếp sau tốt hơn.
3) Phi hữu ái (vibhavatanhā): Muốn hủy diệt thân này, muốn chấm dứt mọi thứ nhưng vẫn còn dính mắc vào "cái tôi".
Khi có tham muốn (Ái), con người sẽ nắm giữ (Thủ) những gì mình cho là đáng quý. Khi có chấp thủ, con người sẽ tạo nghiệp, rồi tái sinh tiếp tục trong vòng luân hồi. Nếu muốn dứt bỏ chấp thủ (Thủ), phải diệt tận tham ái (Ái). Khi không còn khao khát, không còn bám víu, thì đạt được Niết-bàn – trạng thái giải thoát khỏi luân hồi.
3. Con đường đưa đến đoạn diệt của thủ
Thánh Ðạo Tám Ngành này là con đường đưa đến đoạn diệt của thủ, tức là: Chánh Tri kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm, Chánh Ðịnh.
Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thủ như vậy, tuệ tri tập khởi của thủ như vậy, tuệ tri đoạn diệt của thủ như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của thủ như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên, nhổ tận gốc kiến mạn tùy miên "Tôi là", đoạn trừ vô minh, khiến minh khởi lên, diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại. Chư Hiền, như vậy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.
Last updated
Was this helpful?