P03-Tứ Diệu Đế
Last updated
Was this helpful?
Last updated
Was this helpful?
Chánh Tri Kiến P3 - Tứ Diệu Đế
Chúng ta đã tìm hiểu , và trong bài kinh Chánh Tri Kiến. Trong Phần 3, Đức Phật giảng về Tứ Diệu Đế, bàn về khổ, nguyên nhân dẫn đến khổ, đoạn diệt khổ, và con đường đưa đến đoạn diệt khổ:
Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri Khổ, tuệ tri Tập khởi của khổ, tuệ tri Ðoạn diệt của khổ, tuệ tri Con Ðường đưa đến đoạn diệt của khổ, chư Hiền, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.
1. Khổ
Chư Hiền, thế nào là Khổ, thế nào là Tập khởi của khổ, thế nào là Ðoạn diệt của khổ, thế nào là Con Ðường đưa đến đoạn diệt của khổ? Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu bi khổ ưu não là khổ, cầu không được là khổ, tóm lại năm thủ uẩn là khổ. Chư Hiền, như vậy gọi là Khổ.
*Giải nghĩa:
Phật dạy rằng cuộc sống vốn là khổ, và khổ có nhiều hình thái khác nhau:
a) Sanh là khổ: Vì khi sinh ra đã mang thân ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), vốn vô thường và chịu sự chi phối của khổ đau.
b) Già là khổ: Khi cơ thể suy yếu, mất đi sự khỏe mạnh, sắc đẹp, khả năng tư duy minh mẫn.
c) Bệnh là khổ: Khi thân thể đau đớn, tinh thần suy nhược, phụ thuộc vào thuốc men.
d) Chết là khổ: Khi đối mặt với sự chia ly, lo sợ cái chết, hoặc phải tái sinh vào cảnh giới không mong muốn.
e) Sầu bi khổ ưu não là khổ: Bao gồm các trạng thái đau khổ tinh thần khi mất mát, buồn phiền, lo âu, sợ hãi.
f) Cầu không được là khổ: Khi ham muốn mà không đạt được thì sinh ra thất vọng, đau khổ.
g) Năm thủ uẩn là khổ: Sắc uẩn (thân thể vật chất), Thọ uẩn (cảm giác vui, buồn, không khổ không vui), Tưởng uẩn (sự nhận biết, tưởng tượng), Hành uẩn (tư duy, ý chí, nghiệp lực), Thức uẩn (ý thức phân biệt) Năm uẩn này luôn biến đổi, không bền vững, nhưng con người lại chấp thủ, bám víu vào chúng, tạo ra khổ đau.
2. Tập khởi của khổ
Chư Hiền, thế nào là Tập khởi của khổ? Chính là ái đưa đến tái sanh, cùng khởi hỷ dục và tham hướng đến tái sanh, cùng khởi hỷ dục và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia, tức là dục ái, hữu ái, phi hữu ái. Chư Hiền, như vậy gọi là Tập khởi của khổ.
Giải nghĩa:
Đức Phật dạy rằng khổ đau không tự nhiên sinh ra, mà có nguyên nhân chính là ái dục (taṇhā) – lòng ham muốn, sự chấp thủ vào thế giới vật chất và tinh thần. Ái dục này dẫn đến tái sinh, khiến con người mãi luân hồi trong sinh tử, không thể thoát khổ. Có ba loại ái dục gây ra khổ đau:
a) Dục ái (kāma-taṇhā) – Ham muốn các thú vui cảm giác (sắc đẹp, âm thanh, mùi hương, vị ngon, xúc chạm êm ái).
b) Hữu ái (bhava-taṇhā) – Ham muốn được tồn tại, có mặt trong đời sống, bám víu vào danh vọng, quyền lực, tài sản.
c) Phi hữu ái (vibhava-taṇhā) – Ham muốn hủy diệt, chối bỏ sự tồn tại, tìm cách trốn tránh thực tại bằng cực đoan như tự tử hoặc phủ nhận nhân quả.
3. Ðoạn diệt của khổ
Chư Hiền, thế nào là Ðoạn diệt của khổ? Ðó là sự đoạn diệt, ly tham, không có dư tàn, sự quăng bỏ, sự từ bỏ, sự giải thoát, sự vô chấp khát ái ấy.
*Giải nghĩa:
Khổ đau không phải là một điều bất biến – nó có thể được đoạn diệt nếu con người diệt trừ được nguyên nhân của khổ, tức là tham ái (taṇhā). Khi không còn tham ái, thì con người đạt đến trạng thái giải thoát hoàn toàn – không còn bị ràng buộc bởi luân hồi sinh tử. Các trạng thái của sự đoạn diệt khổ:
a) Đoạn diệt (nirodha) – Dứt bỏ tận gốc mọi tham ái và chấp thủ.
b) Ly tham (virāga) – Tâm hoàn toàn không còn dính mắc vào dục vọng, không còn ham muốn tái sinh.
c) Không có dư tàn – Diệt trừ tham ái một cách trọn vẹn, không còn sót lại chút nào.
d) Quăng bỏ, từ bỏ – Chủ động vứt bỏ mọi ràng buộc của ái dục, như một người vứt bỏ gánh nặng.
e) Giải thoát (vimutti) – Tâm được tự do, không còn bị trói buộc bởi phiền não và sinh tử.
f) Vô chấp (anupādāna) – Không còn bám víu vào bất cứ điều gì trong đời sống.
4. Con đường đưa đến đoạn diệt khổ
Chư Hiền, thế nào là Con Ðường đưa đến đoạn diệt của khổ? Chính là Thánh Ðạo Tám Ngành đưa đến khổ diệt, tức là: Chánh Tri kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm, Chánh Ðịnh.
Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri Khổ như vậy, tuệ tri Tập khởi của khổ như vậy, tuệ tri Ðoạn diệt của khổ như vậy, tuệ tri con Ðường đưa đến đoạn diệt của khổ như vậy, khi ấy vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên, nhổ tận gốc kiến mạn tùy miên "Tôi là", đoạn trừ vô minh, khiến minh khởi lên, diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại. Chư Hiền, như vậy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.
Giải nghĩa:
"Tuệ tri" có nghĩa là hiểu biết một cách rõ ràng, đúng đắn bằng trí tuệ về Khổ, vị ấy đoạn trừ:
a) Đoạn trừ tham tùy miên – Không còn dính mắc vào dục vọng.
b) Tẩy sạch sân tùy miên – Không còn giận hờn, sân hận.
c) Nhổ tận gốc kiến mạn tùy miên "Tôi là" – Không còn chấp ngã, ngã mạn.
d) Đoạn trừ vô minh, khiến minh khởi lên – Thấy rõ chân lý, sống với trí tuệ sáng suốt.
e) Diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại – Không còn phiền não, đạt được an lạc và giải thoát.