P09-Bỏ rơi Việt Nam | Nghiên Cứu Lịch Sử
Last updated
Was this helpful?
Last updated
Was this helpful?
Bỏ rơi Việt Nam (Bài 9) | Nghiên Cứu Lịch Sử
James H. Willbanks | Trần Quang Nghĩa dịch
9 Sự sụp đổ ở mặt trận phía Bắc
TRẬN CHIẾN PHƯỚC LONG
Sau khi gần 31.000 quân nhân của mình đã tử trận trong năm 1974, chính quyền miền Nam đã rơi vào tình thế tuyệt vọng vào đầu năm 1975. Tổng thống Thiệu bị tấn công, một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn diện đã bùng phát, và người dân miền Nam nhanh chóng nhận ra rằng Hoa Kỳ sẽ không cung cấp sự hỗ trợ đã trót hứa.
Trận chiến bắt đầu ở tỉnh Phước Long vào tháng 12 tiếp tục diễn ra vào năm mới. Thủ phủ của tỉnh là Phước Bình nằm cách Sài Gòn 75 dặm về phía bắc, nơi được kết nối qua các tuyến đường 1A và 14. Tỉnh này bao gồm bốn huyện: Đức Phong, Phước Bình, Bố Đức và Đôn Luân (xem bản đồ 13). Vào đầu trận chiến, lực lượng miền Nam tại Phước Long bao gồm 5 tiểu đoàn Địa phương quân (ĐPQ), 3 đại đội trinh sát, 48 trung đội Dân quân và 4 tiểu đoàn pháo binh địa phương.
Trận chiến giành tỉnh này thực sự bắt đầu vào sáng sớm ngày 7 tháng 12 năm 1974 với các cuộc tấn công nghi binh của Trung đoàn Độc lập 205 của QĐNDVN đội vào các thôn ấp và các tiền đồn ĐPQ ở phía đông bắc Thành phố Tây Ninh và vào trạm tiếp sóng vô tuyến của QĐVNCH tại đỉnh Núi Bà Đen. Các cuộc tấn công được thiết kế để thu hút sự chú ý của QĐVNCH khỏi mũi tấn công chính ở Phước Long. Các cuộc tấn công bổ sung đã được phát động ở các tỉnh Bình Tuy và Long Khánh ở phía đông Sài Gòn. Những trận nghi binh này đã thành công: Bộ tư lệnh Quân đoàn III đã bất ngờ khi mũi công kích lớn thọc xuống Phước Long. Vào ngày 13 tháng 12, Quân đoàn 301 của BV gồm sư đoàn 7 và sư đoàn 3 mới thành lập, được tăng cường thêm hai trung đoàn bộ binh riêng biệt và được hỗ trợ bởi các trung đoàn xe tăng, pháo binh và phòng không, đã mở cuộc tấn công chính vào Tỉnh Phước Long bằng các cuộc tấn công thăm dò vào Đôn Luân. Đêm hôm sau, quân địch đồng loạt tấn công vào Đức Phong và Bố Đức. Đơn vị đồn trú miền Nam tại Đôn Luân đã sống sót sau cuộc tấn công đầu tiên, nhưng các vị trí của miền Nam tại Đức Phong và Bố Đức ngay lập tức bị tràn ngập. Các lực lượng VNCH tại thị xã Phước Bình nỗ lực phản công về phía Bố Đức, nhưng quân Cộng sản đã bám sát phía sau, tràn vào Căn cứ Hỗ trợ Hỏa lực Bunard của ĐPQ và chiếm được bốn khẩu lựu pháo 105 mm trong quá trình này.
Trung tướng Dư Quốc Đống, tư lệnh Quân đoàn III, đã phản ứng với các cuộc tấn công bằng cách điều Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 7, Sư đoàn 5 QLVNCH, đến Phước Long từ căn cứ của mình tại Lai Khê. Tuy nhiên, vào thời điểm này, các lực lượng miền Nam trong tỉnh đã hoàn toàn hỗn loạn, và hầu hết đã rút lui về Phước Bình. Khi đến nơi, quân chính quy VNCH đã cố gắng tái tổ chức các binh sĩ ĐPQ thành một kế hoạch phòng thủ hiệu quả, nhưng các cuộc tấn công chớp nhoáng của BV đã làm rung chuyển nghiêm trọng các lực lượng địa phương. Nhiều binh sĩ có gia đình trong khu vực này chỉ đơn giản là biến mất khỏi hàng ngũ để chăm sóc người thân của mình. Việc binh lính đào ngũ để tìm kiếm và chăm sóc các thành viên trong gia đình đã trở thành một mô hình quá quen thuộc trong các trận chiến sắp tới, không chỉ giữa các lực lượng địa phương, mà còn giữa các lực lượng chính quy.
Mặc dù vấn đề đào ngũ đang gia tăng, quân đội chính quy miền Nam đã phát động một cuộc phản công thành công và chiếm lại Bố Đức. Quân đoàn III đã cố gắng đưa thêm người và vật tư vào sân bay Phước Bình, nhưng quân đội Bắc Việt đã pháo kích đường băng trong khi các xạ thủ phòng không của họ khai hỏa vào tất cả các máy bay trong khu vực, làm giảm nghiêm trọng lưu lượng hàng không ra vào tỉnh. Hai chiếc C-130, một chiếc đang hạ cánh và một chiếc đang cất cánh, đã bị bắn trúng trên mặt đất và bị phá hủy. Cùng lúc đó, pháo thủ BV cũng đặt sở chỉ huy Sư đoàn 5 QĐVNCH và sân bay Lai Khê vào tâm điểm hỏa lực nhằm ra sức ngăn chặn bất kỳ máy bay trực thăng nào của họ được sử dụng để vận chuyển quân tiếp viện đến Phước Long. Vào ngày 22 tháng 12, bộ đội BV đã hoàn toàn chiếm lại Bố Đức. Bốn ngày sau, Sư đoàn 7 Bắc Việt một lần nữa tấn công Đôn Luân và cuối cùng đã chiếm được nơi này. Ngoại trừ thủ phủ Phước Bình, toàn bộ tỉnh hiện nằm trong tay Cộng sản.
Tình hình ngày càng tồi tệ ở Phước Long đã thúc đẩy một cuộc họp khẩn cấp tại Sài Gòn giữa Thiệu và các tướng lĩnh của ông. Câu hỏi cấp thiết là có nên tăng cường cho Phước Long hay không. Để tăng cường cho Quân đoàn III, Tướng Đống đã yêu cầu ít nhất một trung đoàn bộ binh hoặc Sư đoàn Nhảy dù, mà ông sẽ đưa bằng trực thăng vào phía bắc của thành phố. Khi tổng thống miền Nam cân nhắc đề xuất của Đống, ông thấy mình ở trong một vị trí rất khó khăn do một số yếu tố. Chính sách “phòng thủ khắp mọi nơi” thường được ông tuyên bố có nghĩa là ông không thể đưa quân, vốn đã bị kéo mỏng, từ các khu vực bị đe dọa khác; đồng thời, ông cũng không dám để mất toàn bộ một tỉnh. Sư đoàn Nhảy dù được triển khai ở Quân khu I, nơi tình hình không cho phép rút quân. Các lực lượng ở Quân khu II và IV cũng đang giao tranh quyết liệt. Tướng Đống không muốn tăng cường Phước Long từ các nguồn lực của Quân đoàn III của mình, bởi vì các sư đoàn khác của ông, Sư đoàn 18 và 25, vẫn đang chạm trán với các sư đoàn CT-5 và CT-9 của QĐNDVN trên các tuyến đường tiếp cận Sài Gòn và Tây Ninh tương ứng. Ngay cả khi có nhiều lực lượng hơn, thì cũng không có khả năng họ có thể được huy động kịp thời để cứu Phước Long. Cũng không có đủ phương tiện không vận để đưa lực lượng cứu viện hoặc tiếp tế cho các lực lượng miền Nam đang bảo vệ thành phố. Ngoài ra, bất kỳ máy bay nào bị mất do mối đe dọa phòng không gia tăng trong khu vực đều không thể thay thế được vì viện trợ quân sự của Hoa Kỳ đã giảm. Cuối cùng, vì những yếu tố này và đánh giá của Thiệu cho rằng Phước Long kém quan trọng về mặt chiến lược hơn các khu vực khác—như Tây Ninh, Huế và Pleiku—tổng thống và các tướng lĩnh của ông đã quyết định không khởi xướng một đợt tăng viện quy mô lớn cho lực lượng phòng thủ đang bị bao vây tại Phước Long.
Thay vào đó, Tướng Đống được chỉ đạo xử lý tình hình bằng các lực lượng của mình, nhưng không làm suy yếu lực lượng phòng thủ đang bảo vệ các tuyến đường tiếp cận Sài Gòn, khu vực mà ông cũng chịu trách nhiệm. Mặc dù Đống không có nhiều lựa chọn, ông quyết định đưa vào Phước Long Nhóm Biệt động Không vận 81, lực lượng đã chiến đấu rất anh dũng trong trận chiến năm 1972 giành An Lộc.
Khi Đống đang suy nghĩ làm sao để đưa lực lượng Biệt động vào trận chiến, thì quân Bắc Việt đã mở một cuộc tấn công bộ binh nhiều trung đoàn, được hỗ trợ bởi một trung đoàn xe tăng và pháo binh của quân đoàn vào sở chỉ huy quận Phước Bình. Đến ngày hôm sau, quân phòng thủ miền Nam buộc phải rút lui đến các vị trí phòng thủ mới xung quanh sân bay. Quân BV cố gắng chen vào giữa các lực lượng này và Phước Bình, nhưng sau một ngày chiến đấu ác liệt, quân phòng thủ VNCH đã xoay xở để rút lui theo cách khá trật tự và thiết lập một tuyến phòng thủ trong thành phố.
Lúc 07 giờ sáng ngày 1 tháng 1, quân Bắc Việt đã mở một cuộc tấn công bộ binh-thiết giáp khác vào Phước Bình từ phía nam. Cùng lúc đó, các vị trí của QĐVNCH trên Núi Bà Rá đã bị quân Bắc Việt tràn ngập, tại đó họ đã lập các trạm quan sát tiền tiêu cho phép họ nã pháo rất chính xác vào các mục tiêu bên trong thành phố. Rất nhanh chóng, các pháo thủ BV đã phá hủy 8 khẩu lựu pháo 105 mm và 4 khẩu pháo 155 mm của quân miền Nam. Ngoài ra, quân Bắc Việt đã đặt vũ khí phòng không trên ngọn núi, đe dọa bất kỳ máy bay trực thăng hoặc máy bay cánh cố định nào trong khu vực bao quanh thành phố. Tuy nhiên, các phi công Không quân Việt Nam đã làm hết sức mình, phá hủy 15 xe tăng quân địch và hỗ trợ quân phòng thủ ngăn chặn cuộc tấn công của kẻ thù cho đến hết buổi chiều ngày 2 tháng 1.
Tình hình bên trong thành phố đã đạt đến đỉnh điểm. Quân phòng thủ miền Nam, chỉ còn đang chiếm giữ khu chợ, khu phức hợp sở chỉ huy tỉnh và một đường băng nhỏ, nhận được hơn 3.000 quả đạn pháo mỗi ngày. Mặc dù đạn dược và quân nhu được thả từ trên không xuống cho lực lượng dưới đất, nhưng nỗ lực thu hồi vật tư cần thiết của họ đã bị hỏa lực pháo binh mà trinh sát viên Bắc Việt trên núi Bà Rá chỉ đạo cản trở nghiêm trọng. Ngoài ra, vũ khí phòng không của quân Bắc Việt trên núi đã ngăn cản trực thăng di tản hàng trăm thương binh.
Vào ngày 4 tháng 1, hai nỗ lực đổ bộ của Biệt động 81 về phía đông thành phố đã bị hủy bỏ vì trời mưa và tầm nhìn kém; nhưng ngày hôm sau, hai đại đội đã đổ bộ thành công ngay phía bắc tòa nhà hành chính của tỉnh. Biệt động ngay lập tức mở cuộc phản công để chiếm lại các vị trí đã mất gần sở chỉ huy khu vực. Sự xuất hiện của họ đã ổn định tình hình phần nào, nhưng hệ thống phòng thủ của miền Nam đang dao động, đặc biệt là trong số các đơn vị ĐPQ, một số đã bị tiêu diệt trước các cuộc tấn công liên tục của xe tăng quân Bắc Việt. Vào nửa đêm ngày 6 tháng 1, quân Bắc Việt đã mở một cuộc tấn công lớn khác và đẩy lùi quân Biệt động ra khỏi vị trí của họ. Sáng hôm sau, toàn bộ hệ thống phòng thủ đã sụp đổ. Những người phòng thủ đã chiến đấu rất quyết liệt, phá hủy 16 xe tăng quân Bắc Việt trong quá trình này, nhưng cuối cùng, ưu thế áp đảo về quân số của Bắc Việt (ước tính là 4 chọi 1) đã chiến thắng.
Trong số hơn 5.400 binh sĩ miền Nam ban đầu tham gia trận chiến, chỉ có 850 người sống sót. Trong số những người bị giết hoặc bị bắt có tỉnh trưởng, quận trưởng Phước Bình và tiểu đoàn trưởng của Tiểu đoàn 2, Trung đoàn Bộ binh 7.
Toàn bộ tỉnh Phước Long giờ đã nằm trong tay Bắc Việt. Một lính dù, một cựu chiến binh của trận chiến ở An Lộc, đã nói:
Quân địch không giỏi và không dũng cảm như chúng tôi đã nghĩ. Đơn giản là chúng quá đông. Hỏa lực pháo binh của địch ác liệt và chính xác hơn nhiều lần so với trong trận An Lộc. Xe tăng địch có điều gì đó mới mẻ và kỳ lạ. Tên lửa M-72 của chúng tôi không thể hạ gục chúng. Chúng tôi đã bắn trúng chúng; chúng dừng lại một lúc rồi lại tiếp tục di chuyển. Sự hỗ trợ trên không của chúng tôi không hiệu quả lắm; máy bay bay quá cao. Giá mà chúng tôi có thể có B-52 như đã từng có ở An Lộc!
Tuy nhiên, B-52 đã rời đi và không bao giờ quay trở lại. Việc mất tỉnh Phước Long đã gây ra hậu quả tàn khốc cho cả dân thường miền Nam và lực lượng vũ trang. Tình hình ở Sài Gòn càng trở nên tồi tệ hơn nhiều khi không gặp phản ứng của Hoa Kỳ. Điều khiến cả Hà Nội và Sài Gòn ngạc nhiên là Hoa Kỳ không làm gì cả. Trong Thông điệp Liên bang đầu tiên của mình vào ngày 15 tháng 1 năm 1975, Tổng thống Ford thậm chí còn không đề cập đến miền Nam. Vài ngày sau, Ford nói rằng mình không thể tiên liệu hoàn cảnh nào thúc đẩy Hoa Kỳ tích cực tham gia một lần nữa vào Chiến tranh Việt Nam. Người miền Nam đã bị choáng váng. Hoa Kỳ không chỉ cắt đứt họ về mặt vật chất, mà giờ đây còn công khai từ mặt họ.
Cựu tướng QLVNCH Cao Văn Viên đã viết sau chiến tranh rằng sự kiện này đã làm rúng động người miền Nam như chưa từng có kể từ cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968: “Sự thờ ơ hoàn toàn mà Hoa Kỳ và các nước phi cộng sản khác nhìn nhận về mất mát bi thảm này đã củng cố thêm sự nghi ngờ của người dân Việt Nam về tính khả thi của Hiệp định Paris. Gần như không còn hy vọng là Hoa Kỳ sẽ trừng phạt bằng vũ lực người Bắc Việt Nam vì những vi phạm trắng trợn của họ đối với thỏa thuận ngừng bắn. Niềm tin của người dân vào sức mạnh của lực lượng vũ trang và chính phủ mình cũng bị lung lay sâu sắc. Việc mất Phước Long đánh dấu một bước ngoặt lớn trong Chiến tranh Việt Nam. Nó chứng minh sự bất lực của cả miền Nam và Hoa Kỳ, đồng thời báo hiệu sự khởi đầu của một loạt các sự kiện cuối cùng sẽ dẫn đến sự sụp đổ của miền Nam.
LẬP KẾ HOẠCH MỚI
Tin tức về sự đầu hàng của những lực lượng phòng thủ VNCH tại Phước Long đã đến được các thành viên của Hội nghị toàn thể lần thứ 23 khi họ vẫn đang họp tại Hà Nội. Các nhà lãnh đạo Bắc Việt đã phản ứng một cách hân hoan. Lần đầu tiên, quân đội Bắc Việt đã “giải phóng” toàn bộ một tỉnh, một hành động chắc chắn sẽ làm lung lay lòng tin vốn đã dao động của Nam Việt. Việc QLVNCH không thể ngăn chặn cuộc tấn công của quân đội Bắc Việt, cùng với sự bất lực của Ford và tuyên bố công khai của ông, đã thuyết phục giới lãnh đạo Bắc Việt rằng đã đến lúc bắt đầu cuộc tấn công sau cùng. Bí thư thứ nhất Lê Duẩn nói, “Chưa bao giờ chúng ta có điều kiện quân sự và chính trị hoàn hảo như vậy hoặc lợi thế chiến lược lớn như bây giờ”. Khi Hội nghị toàn thể kết thúc, Lê Duẩn chỉ đạo ban lãnh đạo quân sự Bắc Việt lập kế hoạch mới để tận dụng tình hình. Trong bài phát biểu kết thúc, ông nói rằng ông không nghĩ Hoa Kỳ sẽ quay lại chiến đấu ở miền Nam; tuy nhiên, ông cảnh báo các nhà lãnh đạo quân sự rằng, nếu cuộc tấn công 1975–76 không thành công nhanh chóng, “Hoa Kỳ sẽ can thiệp ở một mức độ nhất định để cứu bọn bù nhìn khỏi thất bại hoàn toàn”.
Vào ngày 9 tháng 1, một ngày sau khi Hội nghị toàn thể lần thứ 23 kết thúc, Quân Ủy Trung ương và Bộ Tổng tham mưu đã họp để lập kế hoạch chi tiết cho bước tiếp theo ở Phước Long. Nỗ lực tiếp theo sẽ tập trung vào Tây Nguyên (Quân khu II). Ủy ban, lắng nghe lời cảnh báo của Lê Duẩn rằng Hoa Kỳ vẫn có thể phản ứng (và không biết rằng việc mất Phước Long đã làm rung chuyển miền Nam tệ hại như thế nào), lúc đầu đã có cách tiếp cận khá bảo thủ. Họ chọn thị trấn biên giới nhỏ Đức Lập làm mục tiêu ban đầu ở Quân khu II, cách Ban Mê Thuột, thủ phủ của tỉnh Darlac, khoảng 50 km về phía tây nam.
Cuộc tấn công vào Đức Lập được thiết kế để định vị lực lượng cho cuộc tấn công lớn vào Cao nguyên, sẽ không được bắt đầu cho đến đầu năm sau. Cùng với cuộc tấn công tương đối hạn chế này ở Quân khu II, Quân ủy cũng đã lên kế hoạch các hoạt động tương tự ở Quân khu I phía nam Khu phi quân sự và ở Đồng bằng sông Cửu Long. Khi Lê Đức Thọ và một số đồng chí hung hăng hơn của ông trong Bộ Chính trị theo dõi sự phát triển của các kế hoạch quân sự này, họ lo ngại rằng các hoạt động quân sự đang được cân nhắc có phạm vi quá hạn chế để có thể nắm bắt đủ cơ hội lớn trong tầm tay. Một trong những người ủng hộ mạnh mẽ nhất cho một cuộc tấn công mở rộng là Tướng Trần Văn Trà, chỉ huy Mặt trận B-2, người đã lập luận cho một cuộc tấn công trực tiếp vào thủ phủ của tỉnh, Ban Mê Thuột, mà ông nói rằng “sẽ là một đòn bất ngờ cho kẻ thù. Chúng ta có thể tấn công từ phía không hợp lý, từ phía sau, nơi mà địch không ngờ tới. . . . Việc đó sẽ giống như đốn hạ một thân cây to bằng một nhát rìu ở gốc cây. Các cành và lá sẽ rụng sau đó.” Lê Đức Thọ đồng ý, lập luận rằng một cuộc tấn công thành công sẽ mang lại cho Bắc Việt một tỉnh khác và cung cấp các cứ điểm và các con đường tiếp cận mới cho một cuộc tấn công tiếp theo trong tương lai để chiếm Pleiku, thành phố quan trọng nhất trong khu vực. Thọ và Trà cuối cùng đã thuyết phục được Lê Duẩn lúc đầu còn miễn cưỡng, và họ quyết định tập trung cuộc tấn công không phải vào Đức Lập, mà vào chính Ban Mê Thuột. Theo đó, Thọ đã đến thăm Quân Ủy và chỉ đạo họ suy nghĩ lớn hơn, nói rằng, “Sẽ là vô lý nếu với gần năm sư đoàn ở Tây Nguyên, chúng ta không thể tấn công Ban Mê Thuột.” Mặc dù một số thành viên của Quân Ủy tiếp tục phản đối bất kỳ thay đổi nào, nhưng cuối cùng kế hoạch ban đầu đã được sửa đổi để đưa Ban Mê Thuột vào làm mục tiêu chính. Bộ Chính trị đã phê duyệt kế hoạch mới và Lê Duẩn đã ra lệnh cho Tướng Dũng vào Nam để nắm quyền chỉ huy cuộc tấn công mới—“Chiến dịch 275.”
PHẢN ỨNG CỦA THIỆU
Mặc dù các nhà lãnh đạo quân sự miền Nam trong Bộ Tổng tham mưu Liên quân không biết những gì Bắc Việt lên kế hoạch cho Cao nguyên, nhưng họ biết rằng quân Bắc Việt sẽ cố gắng lợi dụng thắng lợi của họ ở Phước Long. Các tướng lĩnh Sài Gòn tìm đến Tổng thống Thiệu để xin chỉ dẫn, nhưng không có chỉ dẫn nào được đưa ra, vì Thiệu rõ ràng vẫn đang trong tình trạng bị sốc khi mất đứt cả một tỉnh. Quyết định không rút quân cũng không tăng cường lực lượng phòng thủ ở Phước Long của ông đã dẫn đến việc mất một số lượng lớn binh lính và thiết bị mà không dễ dàng thay thế được. Ngoài cuộc khủng hoảng đang gia tăng trên chiến trường, nhiều mối quan tâm cá nhân hơn đã khiến Thiệu mất tập trung. Theo Nguyễn Tiến Hưng, một trong những cố vấn thân cận nhất của Thiệu, tổng thống miền Nam luôn “đa nghi”, “giấu giếm” và “cảnh giác với một cuộc đảo chính chống lại mình”. Sự cảnh giác của ông chỉ tăng lên sau những chiến thắng của quân Bắc Việt ở Phước Long và những chiến thắng tiếp theo sau đó. Hưng kết luận: “Tính đa nghi của Thiệu đã khiến ông không nhận được sự phục vụ tận tâm của những người có năng lực, đội ngũ nhân viên đầy đủ, sự tham vấn và phối hợp. Cuối cùng, bản chất giấu giếm của ông đã khiến các tướng lĩnh của ông nhầm lẫn về ý định thực sự của ông. Thiệu đã không chia sẻ các mục tiêu dự phòng của mình với những người xung quanh cho đến khi quá muộn để tập hợp lực lượng của riêng mình và thời điểm để phát triển các kế hoạch tác chiến hợp lý đã vuột qua.” Tính hay giấu giếm và bất lực trong giải quyết cuộc khủng hoảng của ông sẽ có kết quả thảm khốc khi quân Bắc Việt tiếp tục tấn công.
Bộ Tổng tham mưu Liên quân khuyến nghị Thiệu xem xét một kế hoạch phòng thủ khác phản ánh tình hình mới trên chiến trường. Họ tán thành “việc cắt xén lãnh thổ”, hoặc rút ngắn các phòng tuyến của miền Nam đến các vị trí dễ phòng thủ hơn, và thủ tiêu sắc lệnh “không từ bỏ lãnh thổ”. Chắc chắn là nhận ra tác động chính trị của việc từ bỏ lãnh thổ cho Bắc Việt mà không chiến đấu, Thiệu thậm chí còn từ chối xem xét các khuyến nghị của Bộ Tổng tham mưu. Bùi Diễm, cựu đại sứ miền Nam tại Hoa Kỳ, cho rằng một lý do khác khiến Thiệu từ chối thảo luận về chiến lược mới là ngay cả sau khi mất tỉnh Phước Long, Thiệu vẫn tiếp tục giữ “niềm tin rằng người Mỹ sẽ không bao giờ chấp nhận việc Cộng sản tiếp quản miền Nam, ít nhất là không phải trong tương lai gần”.
Sự tự tin rõ ràng của Thiệu đã đặt nhầm chỗ. Vào tháng 10 năm 1974, Tổng thống Ford đã viết thư cho tổng thống miền Nam, nhắc lại rằng không có thay đổi nào trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với miền Nam và đưa ra cho Thiệu lời “cam kết chắc chắn rằng chính quyền này sẽ nỗ lực hết sức để cung cấp sự hỗ trợ mà ngài cần”. Tuy nhiên, vị tổng thống Mỹ mới cũng gặp phải những rắc rối của riêng mình. Chính quyền non trẻ của ông đã bị đổ lỗi cho tình trạng thất nghiệp gia tăng, nợ quốc gia tăng vọt và cuộc khủng hoảng năng lượng liên tục diễn ra sau lệnh cấm vận dầu mỏ của người Ả Rập năm 1973. Tuy nhiên, Ford muốn tôn trọng những lời hứa lặp đi lặp lại của Tổng thống Nixon với Thiệu. Thật không may, những vấn đề liên tục ở Trung Đông đã chiếm phần lớn thời gian của ông, và ngay cả khi ông có thể tập trung vào Đông Nam Á, ông vẫn bị Quốc hội trói tay, vào tháng 12 1974, Quốc hội đã thông qua một dự luật viện trợ quân sự toàn thế giới, trong đó đặt ra mức trần chỉ 617 triệu đô la viện trợ cho miền Nam, Campuchia và Lào cộng lại.
Tuy nhiên, Ford vẫn tìm kiếm thêm tiền để hỗ trợ miền Nam. Ông bị Quốc hội ngày càng thù địch chặn lại ở mọi thời điểm. Vào ngày 8 tháng 1, Nhà Trắng, cáo buộc rằng “bên kia đã chọn vi phạm hầu hết các điều khoản chính của thỏa thuận này [Hiệp định hòa bình Paris]”, đã yêu cầu một gói viện trợ quân sự bổ sung với số tiền là 522 triệu đô la để tài trợ cho miền Nam và Campuchia cho đến hết năm tài chính hiện tại (kết thúc vào tháng 6). Chính quyền đã vận động hành lang mạnh mẽ để có được yêu cầu bổ sung, cố gắng thuyết phục Quốc hội rằng việc cắt giảm viện trợ sẽ “làm suy yếu nghiêm trọng lực lượng miền Nam trong giai đoạn quan trọng khi lực lượng Cộng sản ở miền Nam ngày càng mạnh hơn và hung hăng hơn” và rằng điều cấp thiết là phải “cho thế giới thấy rằng Hoa Kỳ đang kiên định thực hiện các cam kết của mình và tiếp tục là một đồng minh đáng tin cậy và kiên định”. Bất chấp những nỗ lực của chính quyền, cả công chúng và Quốc hội đều không hoan nghênh yêu cầu viện trợ mới. Các cuộc biểu tình thắp nến trước Nhà Trắng phản đối yêu cầu viện trợ mới của tổng thống cho miền Nam, và thư từ của quốc hội phản đối mạnh mẽ việc tăng viện trợ. Tuy nhiên, chính quyền đã đặt cược rằng, về lâu dài, người dân Mỹ sẽ không muốn chứng kiến chiến thắng của quân đội Bắc Việt ở miền Nam và sẽ không để các đại diện được bầu của họ cắt viện trợ. Nhóm của tổng thống đã phát động một chiến dịch nhằm gây sự đồng cảm với người miền Nam đang yếu thế.
Quốc hội khóa 94 đã phản ứng mạnh mẽ. Thượng nghị sĩ Kennedy cho biết chính quyền đang sử dụng “các mối đe dọa và chiến thuật hù dọa” để chứng minh cho yêu cầu viện trợ của mình: “Một lần nữa chúng ta lại nghe thấy những lập luận cũ rích và những tranh cãi cũ rích về cùng một cuộc chiến cũ rích. Cuộc xung đột đẫm máu và dai dẳng này xứng đáng được chúng ta sử dụng nhiều biện pháp ngoại giao hơn, chứ không phải nhiều đạn dược hơn”. Kennedy không đơn độc. 82 thành viên của Nhóm Nghị viên Quốc hội lưỡng đảng vì Hòa bình Qua Luật trong một lá thư gửi Tổng thống cho biết họ thấy “không có lợi ích nhân đạo hoặc quốc gia” nào để biện minh cho việc viện trợ Đông Nam Á. Lãnh đạo đa số Thượng viện Mike Mansfield tuyên bố rằng ông “phát ngán với những bức ảnh đàn ông, phụ nữ và trẻ em Đông Dương bị tàn sát bởi súng của Mỹ và đạn dược của Mỹ ở những quốc gia mà chúng ta không có lợi ích sống còn”.
Vào ngày 3 tháng 2, Ford đã gặp gỡ với ban lãnh đạo quốc hội và đề xuất rằng một phái đoàn lưỡng đảng sẽ đến miền Nam để đánh giá tình hình quân sự, chính trị và kinh tế. Một chuyến thăm trước đó tới Sài Gòn vào tháng 1 của Thượng nghị sĩ Sam Nunn của bang Georgia đã thuyết phục Nunn rằng việc cắt giảm viện trợ quân sự đã làm suy yếu nghiêm trọng QLVNCH và “nếu không tiếp tục hỗ trợ từ Hoa Kỳ, . . . thảm bại chắc chắn sẽ xảy ra”. Ford hy vọng rằng một phái đoàn thứ hai sẽ đi đến cùng một kết luận và do đó sẽ làm việc với ông để thông qua dự luật viện trợ bổ sung. Như một trong những cố vấn của ông đã nói: ông muốn đặt “gánh nặng quyết định lên vai họ [phái đoàn quốc hội].”
Kịch bản đã không diễn ra theo cách mà tổng thống và các cố vấn của ông hy vọng. Theo Wolfgang Lehman, phó Đại sứ Martin tại Sài Gòn, các thành viên phái đoàn “không nhất trí với chính sách của chính quyền.” Mặc dù lưu ý rằng “một số thành viên của phái đoàn . . . có quan điểm cân bằng hơn nhiều,” bao gồm Nghị sĩ John Flynt của Georgia và Thượng nghị sĩ Dewey Bartlett của Oklahoma, Lehman cảm nhận rằng những người khác, đặc biệt là Bella Abzug của New York và Donald Frazier của Minnesota, rõ ràng là thiên vị.
Khi đến Sài Gòn vào ngày 26 tháng 2, phái đoàn đã gặp Đại sứ Martin và nhân viên của ông. Theo nhà phân tích CIA Frank Snepp tại Sài Gòn, phái đoàn ngay lập tức khoác lấy mối quan hệ đối đầu và “nghi ngờ” đối với Martin, “thù địch” với nhân viên của ông ta và “quyết tâm dựa vào nhân viên đại sứ quán càng ít càng tốt” để nghe báo cáo, lấy thông tin hoặc tư vấn. Trong một vòng họp, thảo luận và đi thực địa quay cuồng, các thành viên phái đoàn nhanh chóng hình thành quan điểm tiêu cực về Thiệu, chính quyền của ông và toàn bộ tình hình ở miền Nam. Họ đặc biệt quan ngại về việc bỏ tù các nhà báo và đối thủ chính trị cũng như tình hình bất ổn dân sự nhắm vào chế độ Thiệu. Khi các đại biểu gặp tổng thống miền Nam, ông đã trực tiếp đối đầu với họ, nói rằng:
Trong hai thập kỷ qua, người dân miền Nam đã được năm tổng thống Hoa Kỳ thuộc cả hai đảng liên tục nói với họ rằng Hoa Kỳ quyết tâm cung cấp cho họ sự hỗ trợ đầy đủ miễn là họ sẵn sàng chống lại sự xâm lược của Cộng sản để bảo vệ tự do của mình. Cam kết long trọng này đã được gia hạn vào thời điểm ký kết Hiệp định Paris. Vấn đề bây giờ chỉ còn là một câu hỏi đơn giản: liệu cam kết của Hoa Kỳ có giá trị gì không? Lời nói của Hoa Kỳ có đáng tin không? Đó là thông điệp mà tôi muốn các bạn chuyển đến Quốc hội Hoa Kỳ khóa 94.
Hầu hết các thành viên của phái đoàn đều không mấy ấn tượng với thái độ của Thiệu. Tại bữa tiệc tối sau bài phát biểu của ông, họ đã chỉ trích ông bằng những mối quan ngại và luận điểm đến mức Đại sứ Martin sau đó đã phải xin lỗi vì những gì mà Tướng Cao Văn Viên mô tả là hành vi “thô lỗ và khinh thường” của họ. Thay vì thuyết phục các nhà lập pháp chấp thuận viện trợ bổ sung cho Sài Gòn, như Tổng thống Ford đã hy vọng, chuyến đi dường như lại có tác dụng hoàn toàn ngược lại.
Tuy nhiên, vào ngày cuối cùng của chuyến thăm, phái đoàn đã gặp đại diện của Bắc Việt và Chính quyền Cách mạng Lâm thời của Nhóm quân sự chung tại Trại Davis ở Căn cứ không quân Tân Sơn Nhất. Với hy vọng thảo luận về tù binh chiến tranh Mỹ và việc hồi hương hài cốt của quân nhân Hoa Kỳ, phái đoàn đã phải chịu đựng lắng nghe một bài diễn thuyết tuyên truyền của Cộng sản từ thiếu tướng quân đội Bắc Việt Hoàng Anh Tuấn, đại diện cấp cao của CQCMLT, ông ta đã từ chối thảo luận về vấn đề tù binh chiến tranh ngoài các tuyên bố đã chuẩn bị sẵn Sau một cuộc trao đổi căng thẳng với Đại biểu Flynt, Tuấn tuyên bố cuộc họp đã kết thúc và bỏ ra ngoài. Hành vi của những người Cộng sản được cho là đã thay đổi một số suy nghĩ về bản chất của cuộc xung đột ở miền Nam. Khi phái đoàn trở về Washington để gặp tổng thống, tất cả mọi người trừ Bella Abzug đều ủng hộ việc tăng cường viện trợ quân sự và nhân đạo. Tuy nhiên, Đại biểu McCloskey đã đưa ra báo cáo của riêng mình kết luận rằng Bắc Việt “sẽ đánh bại miền Nam trong vòng ba năm” bất kể Hoa Kỳ sẽ làm gì liên quan đến viện trợ quân sự bổ sung. Một tuần sau khi phái đoàn quốc hội trở về, phe Dân chủ tại cả Hạ viện và Thượng viện đã bỏ phiếu phản đối bất kỳ viện trợ nào cho miền Nam và Campuchia
Nếu chuyến thăm của quốc hội không mang lại kết quả như mong muốn của tổng thống Mỹ, thì nó có tác động thậm chí còn tệ hơn đối với Thiệu và các tướng lĩnh của ông, họ giờ đã đi đến kết luận rằng mình sắp bị Hoa Kỳ bỏ rơi. Tướng Viên sau này đã viết:
Nhìn chung, những vị khách rời đi [từ phái đoàn quốc hội] đã để lại một cảm giác bi quan. Bầu không khí tràn ngập tin đồn và suy đoán, tất cả đều có hại cho sự nghiệp quốc gia. Tại Hoa Kỳ, chúng tôi bị buộc phải tin rằng, chính phủ của chúng tôi bị coi là tham nhũng không thể cứu vãn, chuyên chế và áp bức. Chán nản và bối rối vì những khó khăn trong nước, về chính trị và kinh tế, Hoa Kỳ không còn ở vị thế để đóng góp cho nỗ lực chiến tranh. Viện trợ không những không có cơ hội tăng lên; mà ngược lại sẽ bị cắt giảm thêm vì sự chú ý của người Mỹ đã chuyển sang Trung Đông.
Tướng Viên kết luận rằng khi phái đoàn quốc hội Mỹ rời Sài Gòn, Thiệu không còn hy vọng gì vào khoản viện trợ bổ sung 300 triệu đô la đã được yêu cầu. Tuy nhiên, theo Nguyễn Tiến Hưng, cựu bộ trưởng kế hoạch và phát triển và là một trong những cố vấn thân cận nhất của Thiệu, tổng thống miền Nam, bất chấp mọi dấu hiệu trái ngược, vẫn tin rằng cho đến cuối cùng, Hoa Kỳ sẽ làm gì đó để ngăn chặn sự sụp đổ của miền Nam. Hưng đã viết sau chiến tranh: “Để những người Cộng sản đạt được chiến thắng quân sự trước miền Nam sẽ gây tổn hại quá lớn đến uy tín của Hoa Kỳ. Toàn bộ quá trình rút quân của Hoa Kỳ đã được thiết kế để bảo vệ danh dự của Hoa Kỳ. Chúng ta không thể hiểu được rằng Ford và Kissinger sẽ cho phép Hoa Kỳ bị sỉ nhục vì sự thảm bại của chính chúng ta.” Thực tế là Quốc hội sẽ không cho phép Ford và Kissinger làm bất cứ điều gì để ngăn chặn chiến thắng của Bắc Việt.
Khi phái đoàn quốc hội rời Sài Gòn, họ mang theo bản sao báo cáo tình báo mới nhất của DAO, trong đó cho thấy rõ ràng rằng Bắc Việt đã ở vị thế có thể mở một cuộc tấn công lớn. Báo cáo cho biết Bắc Việt đã tăng lực lượng dự bị chiến lược từ hai sư đoàn lên bảy sư đoàn, do đó tạo thêm hơn 70.000 quân sẵn sàng tham gia vào miền Nam để tăng cường cho 200.000 quân chiến đấu và 100.000 quân hỗ trợ đã có ở đó. Vào thời điểm này, theo báo cáo, quân Bắc Việt đã có 17 sư đoàn ở miền Nam, được hỗ trợ bởi 500 xe tăng và 500 khẩu pháo. Ngoài ra, họ còn có hơn 200 vũ khí phòng không các cỡ nòng khác nhau, bao gồm cả tên lửa đất đối không. Những con số này không bao gồm 40.000 quân Bắc Việt hoạt động bên trong Campuchia hoặc 50.000 quân hỗ trợ ở Lào.
Dự đoán một cuộc tấn công lớn sắp xảy ra ở nửa phần phía bắc miền Nam, báo cáo kết luận rằng “chiến dịch dự kiến sẽ diễn ra trên toàn quốc và một số chỉ số cho thấy sự ra đời của các sư đoàn dự bị chiến lược từ Bắc Việt”.
CHIẾN DỊCH 275
Ước tính tình báo của DAO chính xác đến bất ngờ. Trong khi các cuộc thảo luận về ngân sách tiếp tục diễn ra tại Hoa Kỳ, Bắc Việt đã chuẩn bị cho sự khởi đầu của Chiến dịch 275. Vào cuối tháng 1, quân Bắc Việt bắt đầu điều động thêm lực lượng vào Tỉnh Darlac. Trong tháng 2, người ta nhìn thấy các đoàn xe tải lớn di chuyển về phía nam dọc theo Hành lang Trường Sơn hầu như hàng ngày. Mặc dù máy bay ném bom chiến đấu của Không quân Việt Nam đã tấn công đoàn xe này nhiều như có thể, nhưng chúng không cản trở bao nhiêu các đơn vị và thiết bị ồ ạt chảy vào khu vực. Sư đoàn quân Bắc Việt 320 đóng quân gần Pleiku và Sư đoàn F-10 tại Kontum bắt đầu di chuyển về phía Ban Mê Thuột. Các sư đoàn quân Bắc Việt khác, bao gồm sư đoàn 312, 316 và 968, đã chiếm giữ các vị trí xung quanh thành phố. Ngoài 5 sư đoàn bộ binh chủ lực của quân Bắc Việt, 15 trung đoàn xe tăng, pháo binh, phòng không và đặc công hoạt động trong khu vực, tổng cộng từ 75.000 đến 80.000 quân. Phòng thủ Ban Mê Thuột là một trung đoàn từ Sư đoàn 23 của QĐVNCH, một nhóm Biệt động và nhiều lực lượng ĐPQ khác nhau. Do đó, so với quân miền Nam, Cộng sản đã đạt được tỷ lệ chiến đấu là 5,5 trên 1 về mặt quân số, 1,2 trên 1 về mặt xe tăng và 2,1 trên 1 về mặt pháo binh trong khu vực xung quanh Ban Mê Thuột.
Khi Tướng Dũng đến khu vực này, ông đã thiết lập sở chỉ huy của mình cách Ban Mê Thuột khoảng 30 km về phía đông. Kế hoạch của ông khá đơn giản, sử dụng một chiến thuật mà ông đã phát triển và lần đầu tiên sử dụng chống lại người Pháp vào năm 1952 được gọi là “hoa sen nở”—một kế hoạch tác chiến trong đó cuộc tấn công sẽ tránh các điểm mạnh ở xa mà bắt đầu đánh vào trung tâm các vị trí của kẻ thù, sau đó lan tỏa ra bên ngoài “như một cánh hoa từ từ bung ra”. Ông dự định bắt đầu cuộc tấn công bằng đòn nghi binh vào nơi khác ở Tây Nguyên để đánh lạc hướng sự chú ý của miền Nam khỏi cuộc tấn công chính của mình. Sau đó, ông sẽ cắt đứt các tuyến đường 14, 19 và 21 để tách rời các tỉnh Tây Nguyên khỏi vùng đất thấp của Quân đoàn II (Pleiku và Nha Trang), do đó ngăn chặn quân đội Việt Nam Cộng hòa tiếp viện cho khu vực Ban Mê Thuột. Khi đạt được điều này, quân đội Bắc Việt sẽ thực hiện cuộc tấn công chính vào thành phố.
Mặc dù tình báo của QLVNCH đã dự đoán đúng rằng quân Bắc Việt đang chuẩn bị chiếm Ban Mê Thuột, Trung tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân đoàn II không đồng tình với đánh giá này, tin rằng động thái của địch về phía Ban Mê Thuột mang tính chất nghi binh và mục tiêu chính sẽ là thành phố Pleiku hoặc Kontum. Nhận định của ông đã trúng kế hoạch đánh lừa của quân Bắc Việt, khi họ ra đòn tấn công vào nhiều tiền đồn và các căn cứ hỏa lực ở phía bắc và phía tây hai thành phố này. Theo đó, Phú giữ Sư đoàn 23 VNCH ở lại Pleiku. Ngay cả khi tư lệnh quân đoàn nhận được xác nhận rằng Sư đoàn 320 quân Bắc Việt đang tiến về Ban Mê Thuột, ông chỉ gửi một trung đoàn, trung đoàn 53 từ Sư đoàn 23, đến thành phố.
Trận chiến Ban Mê Thuột bắt đầu vào ngày 1 tháng 3 với các cuộc tấn công nghi binh của Sư đoàn 968 quân Bắc Việt vào các căn cứ hỏa lực phía bắc và phía tây Pleiku. Ngày 4 tháng 3, quân Bắc Việt cắt đứt Đường 19 tại hai nơi giữa Qui Nhơn và Pleiku. Ngày 5 tháng 3, lực lượng quân Bắc Việt bổ sung đã chặn Đường 21 tại ba nơi giữa Ban Mê Thuột và bờ biển. Tuy nhiên, Tướng Phú vẫn tin rằng mục tiêu của địch là Pleiku. Vào ngày 8 tháng 3, Trung đoàn 9 của Sư đoàn 320 quân Bắc Việt đã cắt đứt Đường 14 ở phía bắc Buôn Blech, do đó hoàn thành việc cô lập Ban Mê Thuột. Đến giữa trưa ngày 9 tháng 3, ngay cả Phú cũng thấy rõ ràng quân Bắc Việt đang tập trung nỗ lực vào Ban Mê Thuột. Ông đã vội vã điều động Tập đoàn quân Biệt động 21 đến Buôn Hồ, cách thành phố 20 dặm về phía bắc, và gọi Bộ Tổng tham mưu xin tăng viện, nhưng họ đã nhanh chóng trả lời ông rằng không còn quân nào cả.
Cuộc tấn công trực tiếp vào Ban Mê Thuột bắt đầu lúc 02 giờ sáng ngày 10 tháng 3 khi quân Bắc Việt mở hai mũi giáp công bằng xe tăng và bộ binh, gồm ba sư đoàn. Vinh dự thực hiện cuộc tấn công đầu tiên thuộc về Sư đoàn 320 quân Bắc Việt, đơn vị mà Dũng đã chỉ huy trước đây trong sự nghiệp của mình. Sư đoàn tấn công từ phía bắc để chiếm kho đạn dược và một đường băng nhỏ cho máy bay hạng nhẹ, chiếm được cả hai vào giữa buổi chiều. Sư đoàn 320 đã chỉ đạo một mũi dùi thứ hai vào sân bay Phương Đức ở phía đông thành phố, nhưng Trung đoàn 53 VNCH đã chống trả quyết liệt, làm chậm cuộc tấn công của quân đội Bắc Việt tại đó.
Trong khi Sư đoàn 320 tấn công ở phía bắc, Sư đoàn F-10 của quân đội Bắc Việt và các đơn vị của Sư đoàn 316 đã tấn công từ phía nam. Cuộc tấn công của họ, nhằm vào sở chỉ huy khu vực, nhanh chóng trở thành một trận chiến ác liệt, trong đó quân miền Nam đã chiến đấu rất cừ, gây tổn thất nặng nề cho kẻ thù. Tuy nhiên, tình thế đã thay đổi khi quân Sài Gòn, thể hiện sự bất lực cố hữu trong việc phối hợp hỏa lực hỗ trợ, nhắm vào xe tăng địch đang tấn công nhưng quả pháo lại rơi trúng sở chỉ huy khu vực, phá hủy hệ thống liên lạc và giết chết và làm bị thương nhiều nhân sự chủ chốt. Đến thời điểm đó, hàng phòng thủ VNCH hầu như đã sụp đổ. Những binh sĩ sống sót đã rút lui dưới áp lực nặng nề về sở chỉ huy của Sư đoàn 23 VNCH (một đơn vị tiền phương do sư đoàn phó của Sư đoàn 23, Đại tá Vũ Thế Quang, chỉ huy) tại sân bay, nơi họ nhanh chóng bị bao vây bởi xe tăng và bộ binh của quân Bắc Việt. Đến đêm, quân Bắc Việt đã kiểm soát hầu hết khu vực trung tâm thành phố trong khi quân miền Nam vẫn giữ các vị trí biệt lập trên sân bay và dọc theo chu vi về phía đông, tây và nam. Trận chiến tiếp tục cho đến tận đêm với quân Bắc Việt sử dụng súng phun lửa để đánh tan tác quân phòng thủ Việt Nam Cộng hòa. Vào đầu giờ tối, phần còn lại của Sư đoàn 316 đã áp sát Ban Mê Thuột, hoàn thành việc bao vây thành phố. Vào thời điểm này, quân phòng thủ còn lại đã bị áp đảo về số lượng. Tệ hơn nữa, một phi đội A-37 của Không quân Việt Nam đã vô tình thả bom xuống Sở chỉ huy tiền phương của Sư đoàn 23, làm gián đoạn mọi liên lạc giữa Đại tá Quang và sở chỉ huy sư đoàn tại Pleiku. Không thể liên lạc với cấp trên của sư đoàn, quân miền Nam không thể phối hợp hỗ trợ trên không rất cấp thiết. Ngày hôm sau, quân Bắc Việt, không bị máy bay ném bom chiến đấu của Không quân Việt Nam cản trở, đã tăng cường cường độ tấn công. Đến trưa ngày 11 tháng 3, quân Bắc Việt đã chiếm được sở chỉ huy tiền phương và hầu hết các vị trí còn lại của QĐVNCH, bắt giữ nhiều sĩ quan cấp cao trong quá trình này, bao gồm cả tỉnh trưởng và Đại tá Quang.
QUYẾT ĐỊNH ĐỊNH MỆNH
Khi quân đội Bắc Việt chuẩn bị cuộc tấn công cuối cùng vào Ban Mê Thuột, Tổng thống Thiệu đã đưa ra một quyết định định mệnh, một quyết định cuối cùng sẽ chứng minh là sự hủy diệt của quốc gia ông. Vẫn còn choáng váng vì mất mát thảm khốc ở Phước Long và biết rằng Tỉnh Đắk Lắk đang bị tấn công dữ dội, Thiệu kết luận rằng ông phải hành động quyết liệt trước khi mất hết. QLVNCH đã bị kéo giãn mỏng quá mức một cách nguy hiểm, và lực lượng dự bị chiến lược đã được tung vào. Trước đó, Thiệu đã kiên định với “Bốn không” của mình, yêu cầu phải giữ vững mọi thứ “bằng mọi giá”. Tuy nhiên, việc mất Phước Long vào tháng 1 và sự sụp đổ sắp xảy ra của Ban Mê Thuột đã thuyết phục tổng thống miền Nam rằng chiến lược của ông không còn khả thi nữa.
Vào ngày 11 tháng 3 năm 1975, khi quân Bắc Việt đang trong quá trình tràn ngập Bộ tư lệnh Sư đoàn 23 tại Ban Mê Thuột, Thiệu đã gặp trong bữa sáng với Tướng Viên và Trung tướng Đặng Văn Quang, trợ lý của ông về các vấn đề an ninh. Thiệu nói, “Với sức mạnh và khả năng hiện tại của chúng ta, chúng ta chắc chắn không thể giữ lại và bảo vệ toàn bộ lãnh thổ mà chúng ta muốn”. Thay vào đó, ông đã quyết định rằng lực lượng QLVNCH chỉ nên tập trung bảo vệ những khu vực đông dân được coi là cần thiết nhất. Nhìn vào một bản đồ thu nhỏ, ông đã phác thảo những khu vực mà ông cho là quan trọng nhất (xem bản đồ 14). Ông cho biết rằng Quân khu III và IV là quan trọng và phải được giữ bằng mọi giá; bất kỳ lãnh thổ nào đã mất ở những khu vực này đều phải được giành lại. Những khu vực quân sự này, nơi chứa phần lớn dân số và nguồn tài nguyên quốc gia của miền Nam, sẽ trở thành “trái tim bất khả xâm phạm, thành trì quốc gia không thể thu hẹp”. Đối với Quân khu I và II, theo Tướng Viên, Thiệu có vẻ kém tự tin hơn. Giao tranh đã diễn ra gần như liên tục ở Quân khu I kể từ khi ngừng bắn, và quân Bắc Việt đặc biệt mạnh ở đó. Huế và Đà Nẵng vẫn quan trọng. Do đó, ở Quân khu I, vấn đề sẽ là “giữ những gì bạn có thể”. Ở Tây Nguyên, Ban Mê Thuột phải được giữ vì tầm quan trọng về kinh tế và nhân khẩu học của nó, và các thành phố ven biển quan trọng cũng phải bảo vệ. Để thực hiện được điều mình muốn, Thiệu đã vẽ một loạt các đường giai đoạn trên bản đồ chỉ ra cách QLVNCH sẽ rút lui nếu không thể chống lại cuộc tấn công của quân Bắc Việt. Nếu quân miền Nam đủ mạnh, họ sẽ giữ lãnh thổ cho đến Huế hoặc Đà Nẵng. Nếu không, họ sẽ tái triển khai xa hơn về phía nam đến Quảng Ngãi, sau đó là Qui Nhơn, và cuối cùng là một tuyến phòng thủ cuối ngay phía bắc Tuy Hòa. Chiến lược mới của ông, sau này được mô tả là “nhẹ ở trên, nặng ở dưới”, cho thấy Thiệu đang có kế hoạch đổi không gian lấy thời gian. Trên thực tế, ông đã “cắt ngắn” miền Nam, giống như các tướng lĩnh của ông đã khuyến nghị trước đó. Tướng Viên sau đó đã viết rằng ông đã lên tiếng ủng hộ kế hoạch mới của tổng thống trong cuộc họp, nhưng trong thâm tâm ông có những nghi ngờ nghiêm trọng vì ông “tin rằng đã quá muộn để có thể tái triển khai thành công ở mức độ như vậy”. Viên không nói lên nỗi lo lắng của mình vì, như ông đã viết sau này, có vẻ như tổng thống đã quyết định và không muốn thảo luận thêm. Suy cho cùng, Thiệu là người “đưa ra mọi quyết định về cách tiến hành chiến tranh”.
Quyết định của Thiệu không phải là quyết định tồi xét về mặt quân sự thuần túy. 7 trong số 13 sư đoàn của QLVNCH được triển khai ở Quân khu I và II, chỉ bảo vệ một phần năm dân số. Việc rút ngắn các tuyến phòng thủ và rút các lực lượng này để hỗ trợ bảo vệ Quân khu III và IV, nơi có hơn mười hai triệu người cư trú, là điều hợp lý. Tuy nhiên, việc rút quân khi đang bị hỏa lực tấn công là một trong những cuộc điều động quân sự khó khăn nhất. Nếu không được tiến hành theo cách có trật tự và được kiểm soát, cuộc điều động này có thể nhanh chóng trở thành thảm họa. Chiến lược của Thiệu có thể đã hiệu quả nếu được áp dụng sớm hơn, nhưng cuộc rút quân ồ ạt được lên kế hoạch kém và thậm chí còn kém hơn nữa dưới áp lực nặng nề của kẻ thù đã diễn ra quá muộn. Quyết định của Thiệu, dẫn đến sự tan rã của lực lượng vũ trang miền Nam, sẽ gây ra hậu quả chết người cho toàn bộ Việt Nam Cộng hòa.
PHẢN CÔNG THẤT BẠI
Đến ngày 11 tháng 3, một ngày sau khi Thiệu đưa ra quyết định định mệnh của mình, quân Bắc Việt đã chiếm được hầu hết tỉnh Darlac. Tuy nhiên, tàn quân của hai tiểu đoàn VNCH vẫn chiến đấu bên trong Ban Mê Thuột, và quân miền Nam vẫn giữ được sân bay Phước An, cách thành phố khoảng 30 km về phía đông. Trung tướng Phú, tư lệnh Quân đoàn II đã cố gắng phản công để chiếm lại Ban Mê Thuột và giải cứu những chiến sĩ bị bao vây. Đầu tiên, ông ra lệnh cho Liên đoàn Biệt động quân số 21 di chuyển về phía nam từ Buôn Hồ đến Ban Mê Thuột.
Cuộc tấn công của biệt động quân ban đầu diễn ra tốt đẹp khi các lực lượng tiến về Ban Mê Thuột chỉ gặp sức kháng cự yếu ớt, đẩy quân Bắc Việt lùi vào thành phố. Biệt động quân đã gần đến ngoại ô Ban Mê Thuột khi Chuẩn tướng Tướng Lê Văn Tường, chỉ huy Sư đoàn 23 QLVNCH, đã dừng họ lại và ra lệnh bảo vệ một bãi đáp bên ngoài thị trấn để đảm bảo di tản an toàn vợ và con ông bằng trực thăng. Mất đà tiến, Biệt động cố gắng lấy lại đà tấn công, chỉ để gặp phải sự kháng cự quyết liệt của lực lượng Bắc Việt mới được tăng viện và tung vào chiến đấu trong thời gian quân Biệt động bận lo việc di tản gia đình của Tường. Một cơ hội hoàn hảo để giải cứu Ban Mê Thuột đã bị vuột mất.
Ngay sau khi cuộc tấn công của lực lượng Biệt động bị đình trệ, Tổng thống Thiệu đã ra lệnh cho Tướng Phú tiến hành một cuộc phản công khác. Phú ra lệnh cho các trung đoàn 44 và 45 của Sư đoàn 23 được không vận đến Phước An từ Pleiku. Khi tất cả các lực lượng đã tập hợp tại Phước An, cuộc phản công sẽ được phát động về phía tây dọc theo Đường 21 để liên kết với những chiến sĩ sống sót của QLVNCH đang cố thủ tại sân bay ở Ban Mê Thuột và chiếm lại thành phố. Lực lượng cứu viện từ Sư đoàn 23 VNCH đã gặp phải những vấn đề lớn với trực thăng hỗ trợ. Trong khoảng thời gian ba ngày, số lượng trực thăng CH-47 đang hoạt động được sử dụng để di chuyển quân đến Phước An đã giảm từ 12 xuống còn 1 do các vấn đề bảo dưỡng và thiếu phụ tùng thay thế. Kết quả là đến ngày 14 tháng 3, chỉ có Trung đoàn 45 và một tiểu đoàn từ Trung đoàn 44 đến được Phước An. Nhiều binh lính trong lực lượng cứu viện có gia đình ở Ban Mê Thuột (là căn cứ hậu phương của Sư đoàn 23) và trong thời gian họ chờ đợi tại Phước An cho đến khi phần còn lại của lực lượng được đưa đến đủ, họ đã chứng kiến một dòng lũ binh lính và dân tị nạn liên tục thoát chạy khỏi thủ phủ của tỉnh dọc theo Đường 21 hướng đến Nha Trang. Lo sợ cho thân nhân của mình, nhiều binh lính đã đào ngũ để tìm kiếm và sơ tán gia đình của họ.
Cuộc phản công cuối cùng đã được phát động từ Phước An vào ngày 15 tháng 3. Đơn vị dẫn đầu chỉ tiến được vài km dọc theo Đường 21 thì đụng độ các đơn vị của Sư đoàn F-10 quân Bắc Việt ở các vị trí chốt chặn. Do kế hoạch kém và liên tục gặp vấn đề về khả năng tiếp cận trực thăng, quân miền Nam đã bắt đầu cuộc phản công mà không có pháo binh hoặc xe tăng hỗ trợ. Khi đối đầu với quân Bắc Việt, lực lượng miền Nam đã hoàn toàn bị áp đảo. Tình hình trở nên tồi tệ hơn do sự lãnh đạo yếu kém kéo dài đến tận cấp cao nhất. Vào ngày 16 tháng 3, Tướng Tường, chỉ huy Sư đoàn 23 VNCH, người đã làm hỏng cuộc tiến công đầy hứa hẹn của lực lượng Biệt động, một lần nữa cho thấy ông không xứng tầm của người chỉ huy. Ông bị một vết thương rất nhẹ ở mặt và thay vì tiếp tục chỉ huy cuộc phản công, ông đã tự mình leo lên trực thăng di tản đến một bệnh viện an toàn tại Nha Trang. Không có gì ngạc nhiên khi cuộc tấn công, dưới sự lãnh đạo đầy khiếm khuyết và tình trạng đào ngũ hàng loạt liên tục, đã bị chặn đứng. Và vào ngày hôm sau, cuộc phản công biến thành một cuộc rút lui khi lực lượng phản công gia nhập vào các đoàn người tị nạn chạy trốn về phía đông. Các vị trí còn lại của QĐVNCH tại Ban Mê Thuột đã bị tràn ngập và những chiến sĩ miền Nam cố thủ đã bị giết hoặc bị bắt. Vào ngày 18 tháng 3, quân Bắc Việt đã tràn ngập sân bay tại Phước An, loại bỏ khu vực tập kết cuối cùng mà QLVNCH có thể sử dụng để phát động một cuộc phản công. Toàn bộ tỉnh Darlac đã rơi vào tay Cộng quân.
Theo phân tích rốt ráo, phần lớn trách nhiệm về thảm bại này thuộc về lỗi lầm của Tướng Phú, bởi vì người chỉ huy Quân đoàn II đã từ chối hành động theo thông tin tình báo đáng tin cậy tiết lộ có 4 sư đoàn quân Bắc Việt đang tiến về Ban Mê Thuột. Hậu quả, ông đã không cung cấp đủ lực lượng để bảo vệ thành phố. Tin chắc rằng mình biết mục tiêu chính kẻ thù sẽ tấn công, ông đã không đánh giá lại tình hình khi có thông tin mới ngược lại. Khi ông nhận ra được Ban Mê Thuột mới chính là mục tiêu chính, thì lúc đó đã quá muộn để đưa đủ quân tiếp viện đến chiến trường.
Bắc Việt, sau khi chiếm thêm được một tỉnh khác, đang trên đà thẳng tiến.
THẢM HỌA Ở CAO NGUYÊN
Sự sụp đổ của Ban Mê Thuột chỉ là màn dạo đầu cho thảm họa tiếp theo. Sự sụp đổ nhanh chóng của tỉnh Darlac ở miền Nam đã làm kinh ngạc giới lãnh đạo miền Bắc. Thiếu tướng BV Trần Côn Mẫn đã nói sau chiến tranh: “Trong cuộc tấn công ở Ban Mê Thuột, chúng tôi đã làm bất ngờ miền Nam. Mặt khác, quân đội miền Nam cũng làm chúng tôi quá bất ngờ, vì họ trở nên rối loạn quá nhanh. Chúng tôi không ngờ điều đó sẽ xảy ra. Chúng tôi vẫn nghĩ rằng sau cuộc tấn công vào Ban Mê Thuột, miền Nam sẽ vạch ra một ranh giới ở đó và phản công. Chúng tôi đã mong đợi một trận chiến rất dữ dội và kéo dài với quân miền Nam xung quanh Ban Mê Thuột.”
Cũng làm Bắc Việt ngạc nhiên không kém là Mỹ đã không làm gì để hỗ trợ cho QLVNCH đang suy yếu. Tướng Dũng đã nhanh chóng bình tĩnh lại sau nỗi kinh ngạc và nhìn thấy cơ hội lớn lao trước mắt. Ông nhận ra rằng với thất bại của QĐVNCH ở tỉnh Darlac, không có lực lượng miền Nam có tổ chức nào đứng giữa quân đội Bắc Việt và Biển Đông. Dũng đã rất gần với việc cắt miền Nam thành hai, cô lập các đơn vị QLVNCH tại Kontum, Pleiku, Bình Định và xa hơn về phía bắc ở Quân khu I. Để nắm bắt lợi thế, Dũng đã thông báo với Hà Nội rằng mình có kế hoạch chuyển lực lượng về phía bắc để chiếm Pleiku và Kontum.
Trong khi Dung lập kế hoạch mới, Thiệu và các tướng lĩnh của ông đã cố gắng quyết định nên làm gì tiếp theo về việc mất Ban Mê Thuột. Họ gặp nhau vào ngày 14 tháng 3 tại Cam Ranh và Thiệu đã hỏi Tướng Phú rằng ông có thể chiếm lại Ban Mê Thuột không. Rõ ràng bị mất tinh thần vì những sự kiện gần đây, Phú đã cầu xin tăng viện, nhưng chỉ được trả lời rằng không có. Sau đó, tổng thống miền Nam đã ra lệnh cho Phú “tái triển khai lực lượng hữu cơ [Quân đoàn II] theo cách để chiếm lại Ban Mê Thuột bằng mọi giá.”
Phú sửng sốt và lúc đầu nghĩ rằng tổng thống đang nói đùa. Để có được sức mạnh chiến đấu để chiếm lại Ban Mê Thuột, ông sẽ phải rút lực lượng còn lại của mình khỏi Kontum và Pleiku, trên thực tế là từ bỏ những thành phố quan trọng này cho Bắc Việt. Sau khi vượt qua nỗi kinh hoàng về những gì mình đã được lệnh phải làm, Phú nhanh chóng vạch ra một kế hoạch. Vấn đề chính là tìm cách đưa lực lượng của mình từ nơi họ đang ở Kontum và Pleiku đến một vị trí mà họ có thể phản công về phía Ban Mê Thuột. Vì tất cả các tuyến đường khả dụng khác đều bị Bắc Việt chặn, Phú đề xuất sử dụng Tuyến đường 7B, một con đường khai thác gỗ ít được sử dụng chạy dài 200 km về phía đông nam từ Pleiku đến Tuy Hòa trên bờ biển, để giải thoát lực lượng Quân đoàn II khỏi Pleiku trong khi Lực lượng địa phương che chắn việc chuyển quân khỏi lực lượng địch (xem bản đồ 15).
Phú bảo ban tham mưu của mình lên kế hoạch bắt đầu cuộc di chuyển hai ngày sau đó. Mỗi ngày trong suốt bốn ngày, một đoàn hộ tống gồm 250 xe sẽ rời Pleiku và di chuyển xuống Tuyến đường 7B đến Tuy Hòa. Nhóm Công binh Chiến đấu số 20 sẽ dẫn đầu đoàn xe đầu tiên, sửa chữa cầu và tân trang lại con đường khi họ di chuyển. Các nhóm Biệt động sẽ đi sau đoàn xe cuối cùng. Trong khi các đơn vị dẫn đầu chuẩn bị di chuyển trên bộ, Không quân Việt Nam sẽ tập trung vào việc di tản máy bay, nhân sự và thành viên gia đình. Trong số những người đầu tiên khởi hành là Tướng Phú và bộ tham mưu của ông, họ được máy bay đưa đến Nha Trang, tại đó họ hy vọng sẽ ngồi lại lập kế hoạch cho cuộc phản công vào Ban Mê Thuột sau khi việc tái bố trí lực lượng ra khỏi Pleiku hoàn tất.
Khi Phú rời đi, ông giao tham mưu trưởng của mình, Đại tá Lê Khắc Lý, đi cùng đoàn xe. Quyền chỉ huy thực tế của đoàn xe được trao cho Chuẩn tướng Phạm Duy Tất, chỉ huy Quân đoàn II Biệt động, người vừa mới được thăng chức.
Tất đang bận chuẩn bị cho sáu nhóm Biệt động của mình di chuyển ra ngoài, vì vậy việc lập kế hoạch cho cuộc rút lui được giao cho Lý. Khi Phú đang chuẩn bị rời đi, Lý hỏi về cách sắp xếp việc di tản lực lượng ĐPQ tại Pleiku. Phú trả lời, “Mặc kệ họ đi. Nếu anh nói với họ về cuộc di tản, anh sẽ không thể kiểm soát được và không thể xuống Tuy Hòa vì tình hình hoảng loạn sẽ xảy ra.”
Lực lượng dân quân và địa phương quân, thực sự không được ai thông báo về những gì đang xảy ra, do đó đã không tiến hành hoạt động che chắn được lên kế hoạch. Không có gì ngăn cản quân đội Bắc Việt truy đuổi quân đội miền Nam khi họ vội vã điều quân, và đó chính xác là những gì đã xảy ra.
Người Mỹ từ các cơ quan DAO, CIA và các tổ chức khác làm việc tại Pleiku cũng không biết gì về cuộc di tản cho đến khi được Đại tá Lý thông báo vào ngày 15 tháng 3. Tin tức này được truyền đến Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn, và sau đó đại sứ quán ra lệnh cho tất cả công dân Hoa Kỳ rời khỏi Cao nguyên Trung phần. Động thái của miền Nam đã khiến người Mỹ hoàn toàn bất ngờ, nhưng đến chiều tối, đại sứ quán đã có thể sơ tán 450 nhân viên người Mỹ và Việt Nam của nhiều cơ quan Hoa Kỳ tại Pleiku bằng máy bay Air America.
Nhà Trắng, vốn đã lo lắng về việc mất Ban Mê Thuột, giờ ngỡ ngàng trước sự rút quân đột ngột của miền Nam khỏi Pleiku. Đại sứ Graham Martin đang ở nhà riêng tại Bắc Carolina để dưỡng bệnh sau một đợt nhiễm trùng nghiêm trọng do áp xe răng. Khi được phó NSC (Hội đồng An ninh Quốc gia) Brent Scowcroft gọi điện, Martin nói mình biết rằng Sài Gòn có kế hoạch chuyển sở chỉ huy Quân đoàn II đến Nha Trang, nhưng không biết gì hơn thế. Trước đây, Martin không hề miễn cưỡng báo động khi ông cho là cần thiết. Do đó, khi ông không lên tiếng phản đối quyết định từ bỏ Pleiku, mặc dù lo ngại, nhưng ban đầu chính quyền Ford không quá khích động về diễn biến mới này. Sau này, Ford đã viết trong hồi ký của mình rằng, “Mọi người đều biết các vấn đề ở miền Nam rất nghiêm trọng, nhưng dường như không ai biết mức độ nghiêm trọng của chúng”. Có thể là như vậy ở Washington, nhưng nhiều người ở Việt Nam thừa nhận rằng miền Nam đang gặp rắc rối nghiêm trọng. Khi việc rút quân khỏi Quân đoàn II diễn ra, Thomas Polgar của Cơ quan Tình báo Trung ương đã gửi điện tín cho Washington nói rằng “trò chơi đã kết thúc”. Bất chấp những đánh giá như vậy, chính quyền Mỹ vẫn tiếp tục nhấn mạnh vào mặt tích cực. Tướng Westmoreland, tham mưu trưởng quân đội, gọi việc tái triển khai là “hành động thận trọng”. Việc chính quyền Mỹ không nhận ra bản chất nghiêm trọng của các sự kiện ở Việt Nam đã thay đổi rất nhanh chóng, và khi cuộc di tản bắt đầu tan vỡ, Nhà Trắng và Lầu Năm Góc ngày càng lo ngại.
Trong khi người Mỹ cân nhắc đến hậu quả của việc tái triển khai, tình hình trên thực địa tại Quân đoàn II đang trên đà vượt khỏi tầm kiểm soát. Những gì được cho là bắt đầu như một sự tái định vị chiến thuật của lực lượng nhanh chóng bắt đầu trông giống như một cuộc rút lui hoảng loạn. Tin tức về động thái sắp xảy ra đã lan truyền sớm, và một số chỉ huy đã bắt đầu di tản mà không cần chờ lệnh từ Quân đoàn II. Khi chỉ huy lực lượng Biệt động tại Kontum bắt đầu rút quân, tỉnh trưởng đã nhảy lên một chiếc xe jeep và gia nhập đoàn quân đang rời đi, nhanh chóng đụng độ một cuộc phục kích của quân Bắc Việt khiến chỉ huy và một số Biệt động quân tử vong. Tuy nhiên, khi quân Bắc Việt bắt đầu pháo kích Kontum, nhiều binh lính và thường dân đã chạy xuống đường đến Pleiku.
Tình hình ở Pleiku cũng không khá hơn. Sự hoảng loạn bùng phát khi Đại tá Lý thông báo cho các chỉ huy đơn vị rằng họ phải chuẩn bị di chuyển. Theo Lý, có hơn một chỉ huy đã hỏi, “Tại sao chúng ta lại rút lui? Chúng ta có thể chiến đấu! Chuyện gì đang xảy ra vậy?” Sau này, Lý kể lại rằng đã trả lời, “Tôi đồng ý với anh. Nhưng giờ chúng ta có Tổng thống và Tổng tham mưu trưởng ra lệnh cho chúng ta. Chúng ta là những người chuyên nghiệp. Chúng ta có thể làm gì? Không tuân lệnh họ ư? Tất nhiên là không. Tôi biết điều đó là sai. Nhưng đó là lệnh. Anh có muốn nổi loạn không?”
Khi những chỉ huy hung hăng hơn của lực lượng chính quy đặt câu hỏi về lệnh di tản khỏi Kontum và Pleiku, lực lượng địa phương quân và dân quân, bỗng phát hiện một cách đau lòng rằng mình thực sự bị bỏ rơi, liền bắt đầu nổi loạn trên đường phố. Ngay sau đó khi tình hình hỗn loạn gia tăng, lực lượng chính quy cũng bắt đầu hoảng loạn. Theo lời của Đại tá Lý, “Binh lính, gia đình binh sĩ trở nên vô kỷ luật. Binh lính đã hãm hiếp, đốt phá đồ đạc và cướp bóc. Binh lính không tuân theo lệnh được ban ra. Tôi không thể trách họ. Không có kế hoạch nào để chăm sóc những người thân của binh lính.”
Giữa cảnh hỗn loạn này, quân đội Bắc Việt bắt đầu pháo kích sân bay. Việc phá hủy các kho đạn dược và khu vực chứa nhiên liệu của những người lính VNCH rời đi chỉ khiến người ta càng thêm tin rằng Pleiku đang trong tình trạng nguy hiểm sắp bị bỏ rơi cho quân Bắc Việt.
Khi đoàn xe đầu tiên khởi hành vào đêm ngày 16 tháng 3, cơn hoảng loạn đã lên đến một chiều kích mới. Một phóng viên sau đó đã viết rằng các bác sĩ đã bỏ bệnh viện của họ, cảnh sát cởi bỏ quân phục, những hành động đốt phá và cướp bóc đã diễn ra tràn lan. Dân thường cố vơ lấy những đồ đạc ít ỏi mà họ có thể mang theo và chạy sau quân đội. Một nữ tu Công giáo nhớ lại “trẻ sơ sinh và trẻ em bị chất lên xe bò và kéo đi. Mọi người đều hoảng loạn. Mọi người cố gắng thuê xe bằng mọi giá”.
Nỗi tuyệt vọng của dân chúng tìm đường chạy trốn khỏi Pleiku tăng cao khi có tin đồn rằng Thiệu đã thỏa thuận với Hà Nội. Người ta cho rằng, Hà Nội sẽ đảm bảo tính trung lập của phần còn lại của miền Nam nếu Thiệu từ bỏ các tỉnh phía bắc. Mặc dù tin đồn này không đúng sự thật, nhưng nó vẫn làm tăng thêm sự hoảng loạn của cả quân đội và dân thường. Bằng chứng cho thấy rằng tin đồn này và những tin đồn tương tự đã được gieo rắc bởi các đơn vị tuyên truyền của quân đội Bắc Việt và các đặc vụ Cộng sản xâm nhập vào chính quyền quân sự và dân sự của miền Nam. Bất kể nguồn gốc của chúng là gì, những tin đồn này đã có tác động tàn phá đến các chiến sĩ, họ bắt đầu đặt câu hỏi về giá trị của việc chiến đấu chống lại điều không thể tránh khỏi.
Việc rút lui khỏi Kontum và Pleiku—qua những con đường phụ trên vùng đất gồ ghề —sẽ rất khó khăn ngay cả trong điều kiện tốt nhất. Tuy nhiên, với quân đội Bắc Việt đang truy đuổi gắt gao và đám đông dân thường hoảng loạn chen chúc với các đơn vị quân đội, cuộc rút lui nhanh chóng trở thành một cảnh tượng hỗn loạn hoàn toàn. Khi đoàn xe dẫn đầu đến Sông Ea Pa, chỉ cách Cheo Reo, thủ phủ của Tỉnh Phú Bổn, vài km về phía đông nam, đoàn xe phải dừng lại trong ba ngày để xây dựng một cây cầu phao. Trong khi đó, đoàn xe bị dồn lại và đám đông dân tị nạn theo sau họ tụ tập dọc theo con đường bên ngoài Cheo Reo. Đến ngày 18 tháng 3, hơn 200.000 quân lính và dân tị nạn chen chúc xô bồ trên một đoạn đường ngắn. Sau này, Đại tá Lý đã nhớ lại cảnh tượng này được gọi là “đoàn xe nước mắt”: “Con đường từ Pleiku thật kinh khủng. Tôi thấy nhiều người già và trẻ em ngã xuống đường và xe tăng, xe tải cán qua họ. Tai nạn xảy ra liên tục. . . . Không ai có thể kiểm soát được bất cứ điều gì. Không có chút trật tự gì. Binh lính chen lẫn với vợ con, cha mẹ họ và dân thường đang cố gắng chăm sóc người thân. Bạn không thể tưởng tượng được. Thật kinh khủng. Không có sự kiểm soát. . . . Dòng người tị nạn bị kéo dài từ Cheo Reo trở lại điểm mà đường 7B và đường 14 tách đôi.”
Sự hỗn loạn ngự trị. Tính toàn vẹn của đơn vị biến mất, cũng như mọi sự kiểm soát dù là bề ngoài. Các đơn vị không thể di chuyển vì họ bị đám đông dân thường làm nghẽn lại. Dân thường, nhiều người trong số họ đã chạy trốn khỏi Pleiku chỉ mang theo những gì họ có thể trên lưng của mình, có rất ít thức ăn hoặc nước uống. Bị giày vò bởi đói khát, họ cũng bị quấy rối bởi bọn đào ngũ lang thang. Khối lượng dân chúng hỗn loạn khiến QĐVNCH gần như không thể thiết lập được một phòng tuyến vững chắc dọc theo con đường.
Khi QĐVNCH bắt đầu di tản khỏi Pleiku, Tướng Dũng nhanh chóng lấy lại sự tỉnh táo sau cơn sửng sốt ban đầu của mình về động thái này. Nhận ra rằng mình có cơ hội tiêu diệt toàn bộ quân đoàn miền Nam, ông đã ra lệnh cho Sư đoàn 320 di chuyển khỏi vị trí của mình dọc theo Đường 14 để tấn công vào sườn quân miền Nam đang chạy trốn.
Cùng lúc đó, ông chỉ đạo Sư đoàn 968 đánh vào phía sau đoàn quân, trong khi các lực lượng Mặt trận B-1 được lệnh cắt Đường 7B phía trước đoàn quân dẫn đầu. Tấn công đầu, đuôi và sườn cùng lúc là một kỹ thuật phục kích truyền thống của Việt Cộng, nhưng chưa bao giờ nó được áp dụng trên quy mô lớn như vậy.
Khi đêm xuống ngày 18 tháng 3, quân Bắc Việt nổ súng vào đám binh lính và dân tị nạn đông đúc dọc theo Đường 7B. Ngay sau đó, Sư đoàn 320 quân Bắc Việt đã tấn công đoàn quân dẫn đầu tại Cheo Reo. Cùng lúc đó, các đơn vị quân Bắc Việt khác đã tấn công Nhóm Biệt động quân số 6 đang tiến đến phía sau của đoàn quân chính gần thị trấn Thanh An tại ngã tư Đường 14 và Đường 7B. Suốt đêm, quân Bắc Việt đã pháo kích vào đoàn quân và dùng súng nhỏ, súng máy và hỏa lực chống tăng để tấn công. Tác động của hỏa lực lên binh lính, xe cộ và dân thường chen chúc nhau như vậy thật là tàn khốc. Sáng hôm sau, một phi công trực thăng của Không lực Việt Nam bay trên khu vực này đã báo cáo, “Khi tôi bay thấp, tôi có thể nhìn thấy xác chết nằm rải rác dọc theo con đường đang cháy cùng với những chiếc xe tải.”
May mắn thay, cây cầu phía đông nam Cheo Reo đã hoàn thành vào sáng sớm ngày 19 tháng 3 và đoàn quân bắt đầu di chuyển trở lại. Tối hôm đó, Tướng Phú ra lệnh cho Đại tá Lý bay ra khỏi Cheo Reo bằng trực thăng. Vì Tướng Tất vẫn đang chỉ huy hậu quân, nên không còn ai phụ trách kiểm soát việc di chuyển của đoàn quân, và từ đó trở đi, các đơn vị riêng lẻ trong đoàn quân tự lo liệu. Trực thăng của Không quân Việt Nam đã bất chấp hỏa lực dữ dội để bốc những binh lính và thường dân bị thương trên đường. Một người lính bị thương được sơ tán khỏi Cheo Reo, mô tả cuộc tấn công của quân Bắc Việt dọc đường, nói rằng, “Họ tấn công chúng tôi bằng mọi thứ. . . . Dân nằm khắp mặt đường khi chúng tôi cố gắng chiến đấu để thoát ra. Binh lính tử trận và người dân cũng tử trận theo họ.” Đến đêm ngày 19 tháng 3, đoàn quân đầu tiên đã đến Sông Côn, chỉ cách bờ biển khoảng 40 km. Tuy nhiên, giao tranh trên toàn tuyến đường vẫn diễn ra ác liệt. Một tiểu đoàn xe tăng VNCH cố gắng đột phá vào đầu ngày đã bị bốn máy bay ném bom chiến đấu của bên ta ném bom nhầm, phá hủy bốn xe tăng và giết hoặc làm bị thương một số binh lính và thường dân. Khi các lực lượng miền Nam ra sức chiến đấu trên đường, quân Bắc Việt đã tấn công xa hơn vào hàng ngũ, gần thị trấn Phú Túc. Đội hậu quân biệt động đang chiến đấu hết mình khi một cuộc không kích nhầm lẫn khác của KQVN đã ném bom vào Nhóm biệt động số 7, xóa sổ hầu hết một tiểu đoàn. Nói một cách quá từ tốn, Đại tá Lý sau đó phát biểu rằng những sai lầm như vậy đã “làm giảm nhuệ khí rất, rất nhiều”.
Một số đơn vị đã chiến đấu anh dũng trước mọi khó khăn, nhưng hầu hết thì không, và tình hình nhanh chóng xấu đi. Giống như ở Ban Mê Thuột, hàng trăm, nếu không muốn nói là hàng nghìn, binh lính miền Nam đã đào ngũ trước mặt kẻ thù để cố gắng tìm kiếm người thân và đưa họ đến nơi an toàn. Những người khác chỉ bỏ chạy để tự cứu mình. Tướng Thịnh, cựu chỉ huy pháo binh của Quân đoàn, sau này đã ca ngợi những người chỉ huy biết giữ cho đơn vị của họ đoàn kết, nhưng thường là vô ích, mọi thứ dường như đều tan rã:
Chúng ta phải chào các chỉ huy tiểu đoàn và sĩ quan cấp dưới vì đã hành quân cùng đơn vị của họ nhưng họ không còn có thể kiểm soát được đám binh sĩ đã kiệt sức và tuyệt vọng của mình. Những người lính liên tục hét lên những lời lăng mạ Thiệu vì cuộc rút lui khủng khiếp, khốn nạn và bất khả thi này. Một số người đã đạt đến giới hạn của sự tuyệt vọng và giết chết các sĩ quan. Một chỉ huy tiểu đoàn pháo binh đang hành quân trong đội hình rút lui đã bị một số lính biệt động bắn chết vì muốn cướp lấy chiếc đồng hồ đẹp đẽ của anh ta. Sự tuyệt vọng lớn đến mức có lúc hai hoặc ba du kích VC đến hiện trường có thể bắt được 100 lính biệt động làm tù binh. Vợ con của những binh lính rút lui đã chết vì đói và bệnh tật trên đường. Đó là một địa ngục thực sự.
Tình hình thậm chí còn tồi tệ hơn ở phía sau lực lượng chính của đoàn quân cuối cùng, nơi lực lượng địa phương quân đã bị bỏ lại để tự lo liệu. Một ĐPQ sau đó báo cáo:
Hầu hết đồng đội tôi đã chết trên đường. . . . Có rất nhiều xác chết la liệt trên đường. Một số vẫn còn sống nhưng họ không có thức ăn và nước uống. Không có ai chăm sóc họ. Chỉ huy của chúng tôi, trung tá, đã chạy trốn để bảo toàn mạng sống và không có ai phụ trách. . . . chúng tôi chỉ cố gắng chiến đấu để dọn đường cho chính mình, chúng tôi không bảo vệ được ai. Hầu hết đồng đội trong tiểu đoàn của tôi vẫn còn trên đường. Một số đã chết, một số bị thương, một số đang cố gắng vượt qua khu rừng rậm. Có hơn 12 tiểu đoàn khác từ Pleiku và Kontum và Phú Bổn vẫn còn ở lại. Họ ở phía sau đoàn xe vì họ chưa bao giờ nhận được lệnh rút lui.
Ngày 21 tháng 3, quân Bắc Việt đã đánh tan Trung đoàn Biệt động 23 bảo vệ phía sau lực lượng chính. Tiếp theo, họ nhanh chóng di chuyển xuống đường và chiếm Che Reo, cắt đứt hoàn toàn Đường 7B và cô lập các nhóm Biệt động 8 và 25 và khoảng 160.000 thường dân. Quân Bắc Việt đã cắt đứt hiệu quả đường cao tốc và các lực lượng trải dài dọc theo đường thành các đoạn riêng biệt. Thông qua Tướng Tất, người vẫn ở phía sau của đội hình chính, Tướng Phú đã ra lệnh cho các đơn vị chính quy bị mắc kẹt bỏ lại tất cả vũ khí hạng nặng và chạy trốn bằng mọi cách có thể. Cả binh lính và thường dân đều thoát thân theo mọi hướng qua khu rừng. Quân Bắc Việt đã truy đuổi. Một phụ nữ từ Pleiku sau đó đã thuật lại rằng Quân đội Bắc Việt “đi từ trong rừng ra và bảo mọi người dừng lại. Chúng tôi đang đi trên một con dốc. Chúng tôi tiếp tục di chuyển. Họ liền bắt đầu bắn vào tất cả chúng tôi.” Tệ hơn nữa, binh lính và dân tị nạn còn lại trên đường đã hết lương thực và hết nước uống. Các máy bay trực thăng của Không quân Việt Nam đã cố gắng chuyển khẩu phần ăn dã chiến của Mỹ, gạo và sữa khô, nhưng nỗ lực của họ không đủ để hoàn thành nhiệm vụ quá to lớn đối với sức mình.
Mặc dù lực lượng VNCH ở phía trước đoàn quân đã đến được Sông Ba, nhưng khó khăn của họ vẫn chưa hết. Để vượt sông, Tướng Phú đã yêu cầu dựng một cây cầu phao. Tuy nhiên, khi xe tải rời Tuy Hòa đến địa điểm vượt sông, họ đã đụng độ một chốt chặn của quân Bắc Việt và không thể đi xa hơn được nữa. Họ quay trở lại Tuy Hòa, nơi các đoạn cầu phao phải được nhấc đi từng khúc bằng các trực thăng CH-47 mượn từ Quân đoàn IV. Đến ngày 22 tháng 3, cây cầu đã được dựng xong. Thật không may, đợt binh lính và dân tị nạn đầu tiên hoảng loạn chạy qua cầu đã làm lật một đoạn cầu phao quá tải, hất tung người và xe xuống nước. Việc sửa chữa phải kéo dài đến tận cuối ngày, giao thông sau đó bắt đầu thông suốt một lần nữa.
Ngày hôm sau, ngay cả thời tiết cũng trở nên bất lợi cho quân đội miền Nam. Việc di chuyển trên đường bị cản trở bởi giá lạnh và sương mù, sương mù cũng cản trở sự hỗ trợ không quân tầm gần vốn rất cần thiết. Cuộc hành trình vẫn quanh co. Đoàn quân đi đầu cố gắng tiến lên chống lại quân đội Bắc Việt trong khi Nhóm Biệt động số 6 ở hậu quân ra sức chiến đấu chống lại quân địch. Vào ngày 27 tháng 3, sau cuộc chiến đấu tuyệt vọng để loại bỏ các vị trí của kẻ thù chặn đường đến bờ biển, Tiểu đoàn Biệt động số 34 đã đột phá và liên kết với một đơn vị ĐPQ đã chiến đấu ở phía đông Tuy Hòa. Trong quá trình đột phá, Tiểu đoàn Biệt động số 34 đã chịu quá nhiều thương vong đến nỗi gần như không còn là một lực lượng chiến đấu nữa.
Theo ước tính của Đại tá Lý, chỉ có khoảng 20.000 trong số 60.000 quân khởi hành từ Pleiku và Kontum cuối cùng đã đến được Tuy Hòa, và hầu hết những binh sĩ sống sót này không còn đủ sức chiến đấu. Chỉ có khoảng 700 trong số 7.000 biệt động ban đầu trốn thoát. Tướng Viên báo cáo rằng trong vòng chỉ 10 ngày, “75 phần trăm sức chiến đấu của Quân đoàn II, bao gồm Sư đoàn Bộ binh 23 cũng như biệt động, thiết giáp, pháo binh, công binh và các đơn vị thông tin, đã bị tiêu hao một cách thảm khốc.” Việc rút lui khỏi Pleiku và Kontum cũng đã chứng tỏ là một thảm họa đối với những người tị nạn. Trong số khoảng 400.000 thường dân cố gắng chạy khỏi Kontum, Pleiku, Phú Bổn và Cheo Reo, chỉ có khoảng 60.000 đến 100.000 người thoát thân được.
Mất mát về vật tư và thiết bị là rất lớn. Hàng trăm khẩu pháo và xe bọc thép đã bị phá hủy trên đường hoặc bị bỏ lại ở Pleiku. Chỉ một số ít xe bọc thép, bao gồm chỉ 30 xe bọc thép chở quân, đến được Tuy Hòa. Gần 18.000 tấn đạn dược, lượng dự trữ trong một tháng cho quân đoàn, đã bị bỏ lại trong các kho ở Ban Mê Thuột, Pleiku và Kontum. Hàng chục máy bay còn nguyên vẹn đã bỏ lại cho kẻ thù ở Pleiku.
Một cựu tướng lĩnh miền Nam sau này đã nói rằng cuộc rút lui khỏi Pleiku “phải được xếp vào một trong những cuộc rút lui được lên kế hoạch tệ hại nhất và được thực hiện tồi tệ nhất trong biên niên sử quân sự”. Cuộc điều động không đúng lúc của Tướng Phú đã tiêu diệt gần như toàn bộ một quân đoàn và dẫn đến việc mất Pleiku và Kontum mà hầu như không có một trận đánh nào. Các kế hoạch chiếm lại Ban Mê Thuột giờ đây đã bốc hơi. “Thất bại tự mình gây ra” này, như Tướng Viên sau này mô tả, “tương đương với một cơn ác mộng khủng khiếp đối với người dân và lực lượng vũ trang miền Nam. Nỗi hoang mang, lo lắng, bất an, cáo buộc lẫn nhau, mặc cảm tội lỗi lỗi và cảm giác chung quặn thắt đau khổ bắt đầu đè nặng lên tâm trí mọi người.” Người miền Nam đã mất sáu tỉnh trong một thời gian rất ngắn, và niềm tin của họ đã bị chấn động nghiêm trọng. Arnold Isaacs, phóng viên Sài Gòn của tờ Baltimore Sun, đã chứng kiến thảm họa ở Quân đoàn II và viết: “Có một cảm giác về một bộ phận quan trọng bị lỏng lẻo. Sau khi chịu đựng quá nhiều trong thời gian dài mà chẳng được đền đáp xứng đáng, những người lính VNCH này giờ đã nếm trải cảm giác bị phản bội mà ngay cả sức chịu đựng đáng kinh ngạc của họ cũng không thể chịu đựng thêm được nữa. Bị các sĩ quan bỏ rơi và bị bỏ lại trên cung đường tồi tệ của Pleiku, họ thậm chí còn bị cướp mất cơ hội cứu vãn lòng tự hào của mình bằng cách chiến đấu trở lại. . . . Không thể tin rằng họ sẽ trở thành một đội quân ra hồn một lần nữa.” Mặc dù thất bại ở Cao nguyên Trung phần đã tệ đến thế, nhưng một thảm họa thậm chí còn tồi tệ hơn đang diễn ra cách đó 200 dặm về phía bắc.
THẢM BẠI Ở QUÂN KHU I
Thảm họa ở Quân đoàn II đã gây ra hậu quả nghiêm trọng cho Quân đoàn I ở Quân khu I. Khi dân tị nạn chạy khỏi Cao nguyên, dân chúng ở các tỉnh cực bắc, sợ rằng họ có thể bị cắt đứt khỏi VNCH, hoảng loạn và bắt đầu đổ về phía nam dọc theo con đường ven biển hướng về Sài Gòn. Chuyến thoát đi của họ khiến mọi việc trở nên cực kỳ khó khăn đối với Trung tướng Ngô Quang Trưởng, tư lệnh Quân đoàn I, một trong những tướng lĩnh chiến trường giỏi nhất của Thiệu, đã thiết lập được một hệ thống phòng thủ vững chắc trong khu vực hoạt động của mình. Trưởng có năm sư đoàn ở những vị trí quan trọng. Sư đoàn Thủy quân Lục chiến tinh nhuệ bảo vệ Quảng Trị. Sư đoàn 1, được nhiều người coi là sư đoàn QLVNCH thiện chiến nhất, và một lữ đoàn thiết giáp chiếm giữ đường ranh giới quan trọng chạy về phía tây và phía nam Huế. Sư đoàn Nhảy dù, cũng là một lực lượng tinh nhuệ, đã bảo vệ Đèo Hải Vân và các tiền đồn ở phía tây Đà Nẵng. Sư đoàn 3, được tái lập sau khi bị tiêu diệt tại Quảng Trị trong Chiến dịch Phục sinh năm 1972, bảo vệ Đà Nẵng. Sư đoàn 2 chịu trách nhiệm bảo vệ các tỉnh Quảng Tín và Quảng Ngãi, trong đó có cảng biển Chu Lai.
Trong hai tháng đầu năm, lực lượng của Trưởng đã làm rất tốt, thành công trong việc chống lại các cuộc tấn công của quân Bắc Việt tại Quảng Trị và Huế và dọc theo Quốc lộ 1. Vận mệnh của họ đã thay đổi sau khi Ban Mê Thuột thất thủ và thảm họa ở Quân đoàn II. Tổng thống Thiệu tin rằng mục tiêu của cuộc tấn công mới của Bắc Việt cuối cùng là Sài Gòn, và theo sự thúc giục của Tổng tham mưu trưởng, ông bắt đầu rút quân về để bảo vệ thủ đô. Vào ngày 11 tháng 3, ông ra lệnh cho Trương giải phóng Sư đoàn Dù để tái triển khai ngay lập tức đến khu vực Sài Gòn. Ngày 13 tháng 3, Trưởng bay đến một cuộc họp với tổng thống tại Dinh Độc Lập để biện hộ cho việc giữ lại Sư đoàn Nhảy dù, một trong những chốt chặn trong toàn bộ hệ thống phòng thủ của ông. Trong một cuộc họp kéo dài ba tiếng rưỡi, Trưởng giải thích với Thiệu rằng hiện tại ông có một kế hoạch phòng thủ tốt ở Quân đoàn I, nhưng việc tách lực lượng nhảy dù rất có thể có nghĩa là cuối cùng sẽ mất Tỉnh Quảng Trị và có thể là cả Huế. Theo Tướng Viên, người đã tham dự cuộc họp, Thiệu đã bắt đầu thảo luận về chiến lược mới của mình, nhấn mạnh rằng việc mất bốn tỉnh có nghĩa là ông không thể làm gì nhiều ngoài việc tái triển khai lực lượng để giữ các khu vực quan trọng xung quanh thủ đô. Vì vậy, ông đã đưa Sư đoàn Nhảy dù đi tái lập lực lượng dự bị chiến lược. Sau đó, Thiệu nói với Trưởng rằng ông sẽ giữ Đà Nẵng, ngụ ý rằng ông sẽ coi phần còn lại của Quân đoàn I là có thể hy sinh. Cùng lúc đó, tổng thống ra lệnh cho tướng Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh mới của Quân đoàn III, rút quân khỏi An Lộc để bảo vệ Sài Gòn. Về cơ bản, Thiệu đã trao cho quân Bắc Việt một tỉnh khác (Bình Long) mà hầu như không có cuộc chiến nào.
Trưởng vừa nản lòng vì Sư đoàn Nhảy dù bị tách ra và bối rối trước các mệnh lệnh của tổng thống, nhưng ông trở lại Đà Nẵng quyết tâm thực hiện mệnh lệnh với tất cả khả năng của mình. Do chỉ thị mơ hồ của Thiệu, Trưởng tin rằng mình được lệnh từ bỏ hầu hết Quân đoàn I, chỉ giữ lại Đà Nẵng, cảng biển và khu vực xung quanh. Dưới giả định đó, ông bắt đầu tái triển khai lực lượng của mình để bảo vệ Đà Nẵng. Ông rút các lữ đoàn Thủy quân Lục chiến ra khỏi Quảng Trị, đưa Lữ đoàn 369 đến các vị trí mới dọc theo Sông Bồ ngay phía bắc Huế, Lữ đoàn 285 đến một vị trí phía bắc đèo Hải Vân để thay thế lữ đoàn dù, và Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến 147 đến các vị trí dù cũ ở phía tây Đà Nẵng. Ông cũng ra lệnh rút Trung đoàn xe tăng 20 và một số khẩu đội pháo 175 mm từ Huế đến một khu vực phía nam Đà Nẵng. Khi các lực lượng này bắt đầu tái triển khai từ Quảng Trị và Huế, người dân địa phương liền trở nên hoảng loạn, nghi ngờ mình sẽ bị bỏ lại cho chế độ Bắc Việt. Do đó, dân thường bắt đầu lũ lượt gồng gánh chạy trốn khỏi Quảng Trị đến Đà Nẵng. Người dân Huế, chứng kiến cuộc di tản khỏi Quảng Trị và nhớ lại những gì đã xảy ra trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968, một lần nữa khăn gói rời bỏ nhà cửa và hòa vào dòng người đổ về phía nam dọc theo Quốc lộ 1. Đến ngày 18 tháng 3, xa lộ ngập tràn những người tị nạn hoảng sợ, cuống cuồng chạy trốn đến Đà Năng. Ngày 19 tháng 3, quân Bắc Việt đã chiếm lại những tàn tích của Quảng Trị mà không cần chiến đấu.
Hôm đó, Tướng Trưởng trở về Sài Gòn để tham vấn với Tổng thống Thiệu một lần nữa. Mục đích của cuộc họp là thảo luận về tổn thất và khó khăn khi cố gắng giữ cả Huế và Đà Nẵng. Kể từ cuộc họp ngày 13 tháng 3, Trưởng và các nhân viên của ông đã vạch ra một kế hoạch theo đó cả Huế và Chu Lai sẽ được giữ lại càng lâu càng tốt. Khi đến nói chuyện với Thiệu, ông đã trình bày kế hoạch này, lập luận rằng Huế và Chu Lai có thể được sử dụng làm khu vực phòng thủ trung gian để làm suy yếu cuộc tấn công của quân Bắc Việt trước khi chúng tấn công Đà Nẵng. Nếu cần thiết, những đội quân này sau đó có thể được rút lui bằng đường biển để cuối cùng bảo vệ Đà Nẵng, nơi sẽ trở thành một thành trì ngăn chặn quân Bắc Việt tiến về phía nam. Theo Nguyễn Tiến Hưng, một trong những cố vấn cấp cao của Thiệu, Tổng thống miền Nam lúc đầu miễn cưỡng đồng ý với kế hoạch của Trưởng, nhưng cuối cùng vị tướng đã thuyết phục được ông ta. Trước khi rời đi, Trưởng chỉ ra rằng vấn đề người tị nạn đang vượt khỏi tầm kiểm soát và cản trở các cuộc di chuyển của quân đội VNCH. Trưởng đã nói với tổng thống về tin đồn dai dẳng là Thiệu đã đạt được một “thỏa thuận” với người Cộng sản trong đó ông nhượng các tỉnh phía bắc cho Bắc Việt; tin đồn này đang làm tăng dòng người tị nạn và làm suy yếu lực lượng của ông. Thiệu không trả lời, để lại vấn đề người tị nạn cho Trưởng giải quyết. Khi vị tư lệnh Quân đoàn I chuẩn bị rời Sài Gòn, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm đã kéo ông sang một bên và gợi ý riêng rằng tổng thống cũng có thể sớm rút Sư đoàn Thủy quân Lục chiến khỏi Quân đoàn I.
Trưởng trở về Đà Nẵng quyết tâm “đánh một trận chiến lịch sử”. Tuy nhiên, trong thời gian ông vắng mặt, tình hình đã xấu đi nhanh chóng. Dòng người tị nạn vào Đà Nẵng như thác lũ ngày càng tăng, và pháo binh quân Bắc Việt tầm xa đã bắt đầu pháo kích vào sở chỉ huy tiền phương của Quân đoàn I gần Huế. Quân đội Bắc Việt đã quét sạch các lực lượng ĐPQ đang che chắn cho quân đội miền Nam rút khỏi Quảng Trị và hiện đang tấn công tuyến phòng thủ tiếp theo của Quân đội Việt Nam Cộng hòa dọc theo Sông Mỹ Chánh, nửa đường đến Huế. Phía nam Huế, các sư đoàn quân Bắc Việt 324B và 325C đã tấn công Sư đoàn 1 VNCH và Liên đoàn Biệt động quân 15 tại vị trí của họ dọc theo Đường 1 (xem bản đồ 16). Ngoài ra, quân Bắc Việt đã bắt đầu pháo kích chính con đường cao tốc, nơi bị kẹt cứng bởi xe máy, ô tô, xe buýt, xe tải, và rất đông người đi bộ.
Vào thời điểm này, lực lượng miền Nam tại Quân khu I phải đối mặt với lực lượng tương đương 9 sư đoàn địch: 5 sư đoàn chủ lực của quân đội Bắc Việt, 9 trung đoàn bộ binh riêng biệt, 3 trung đoàn đặc công, 3 trung đoàn xe tăng, 8 trung đoàn pháo binh và 12 trung đoàn phòng không. Kế hoạch của quân đội Bắc Việt là tấn công các vị trí của miền Nam tại Quân đoàn I cùng lúc từ phía bắc, phía tây và phía nam để đẩy lực lượng của Trưởng vào Đà Nẵng, nơi họ có thể bị tiêu diệt. Là nước đi đầu tiên, Tướng Dũng ra lệnh cho Mặt trận B-4 và Quân đoàn II cắt đứt Đường 1 và cô lập Huế. Một loạt các lệnh không rõ ràng giữa Sài Gòn và Quân đoàn II cuối cùng đã hợp sức để khiến những nhiệm vụ này trở nên dễ dàng hơn nhiều đối với Bắc Việt.
Sáng ngày 20 tháng 3, Tướng Trưởng bay đến Sở chỉ huy Sư đoàn Thủy quân Thủy quân Lục chiến ngay phía nam tuyến Mỹ Chánh để phát biểu trước một cuộc họp của các chỉ huy cấp dưới của mình. Nói với họ về lệnh của Thiệu giữ Huế, sau đó ông điều động các chỉ huy thực hiện lệnh. Vào lúc 13 giờ 30 chiều hôm đó, một thông điệp vô tuyến được ghi âm từ Tổng thống Thiệu đã được phát trên sóng ra lệnh phải giữ Huế “bằng mọi giá”.
Khi Trưởng trở về sở chỉ huy vào cuối buổi chiều, ông đã sửng sốt khi nhận được một thông điệp bí mật “nhanh” (ưu tiên cao) từ Sài Gòn nêu rõ rằng Bộ Tổng tham mưu đã quyết định rằng họ không có đủ nguồn lực để tiếp tế cho cả ba vùng đất bao quanh Quân khu I (Huế, Đà Nẵng và Chu Lai) và rằng ông được “tự do” triển khai lại lực lượng của mình đến Đà Nẵng nếu thấy phù hợp. Trưởng hoàn toàn bối rối trước sự thay đổi hoàn toàn so với những gì đã được thảo luận tại dinh thự vào ngày hôm trước. Để làm mọi thứ rối rắm hơn, lệnh của tổng thống được ghi âm trước về việc giữ Huế vẫn đang được phát sóng trên đài phát thanh hàng giờ. Trưởng không chắc mình nên làm gì.
Ông đã gửi một thông điệp đến Bộ Tổng tham mưu yêu cầu làm rõ và nêu rõ những nghi ngờ của mình về lệnh mới. Ngày hôm sau, ông nhận được phản hồi từ Tướng Viên: “Tình hình rất nguy cấp. Hãy cố gắng hết sức.” Viên sĩ quan soạn thảo thông điệp sau này nói rằng ý ông ta là Trưởng được quyền quyết định rút lui chỉ khi tình hình yêu cầu. Tuy nhiên, theo suy nghĩ của mình, Trưởng nghĩ rằng ông ta được lệnh rút quân về Đà Nẵng. Tướng Viên sau đó thừa nhận rằng ngôn ngữ trong thông điệp của bộ Tổng tham mưu mơ hồ một cách không cần thiết, dẫn đến sự nhầm lẫn của Tướng Trưởng và sau đó ông đã rút toàn bộ lực lượng của mình về Đà Nẵng. Nói như vậy là quá nhẹ nhàng. Một quan sát viên Hoa Kỳ đã giải thích tốt nhất về tình hình, nói với một phóng viên tạp chí Time: “Nó giống như một con yo-yo. Đầu tiên, Thiệu ra lệnh rút lui và bảo vệ Đà Nẵng. Sau đó, ông ta phản đối lệnh đó và ra lệnh giữ Huế. Cuối cùng, ông ta lại đổi ý và ra lệnh cho quân đội rút lui. Một cuộc rút lui có trật tự hợp lý đã biến thành một cuộc tháo chạy.”
Vào ngày 21 tháng 3, quân Bắc Việt tăng cường tấn công vào Đường 1 giữa Huế và Đà Nẵng. Sư đoàn 1 VNCH và Liên đoàn 15 Biệt động quân, phối hợp sử dụng pháo binh và không kích của Không quân Việt Nam đã chiến đấu kiên cường trong suốt cả ngày, nhưng quân Bắc Việt đã tăng viện vào ban đêm. Vào giữa buổi chiều ngày 22 tháng 3, cả Sư đoàn 1 VNCH và Biệt động quân, chịu tổn thất nặng nề, đã bị đánh bại và đường cao tốc bị cắt đứt thực sự tại Phú Lộc, từ đó đã cô lập Huế.
Những Biệt động quân còn sống sót và tàn quân của Sư đoàn 1 VNCH đã tiến hành rút lui về phía bắc vào Huế. Ở phía bắc của thành phố, lực lượng Biệt động quân án ngữ dọc theo Sông Mỹ Chánh đã rút lui dưới áp lực nặng nề về tuyến phòng thủ do lữ đoàn thủy quân lục chiến thiết lập dọc theo Sông Bồ cách Huế khoảng tám km về phía bắc.
Vào ngày 24 tháng 3, Tướng Trưởng, tin rằng ông đã được lệnh trong thông điệp của bộ Tổng tham mưu là bỏ Huế, đã ra lệnh cho lực lượng của mình rút lui qua thị trấn cảng Tân Mỹ, cách Huế 10 km về phía đông bắc, để di tản bằng tàu. Sư đoàn 1 VNCH sẽ yểm trợ cho TQLC, lực lượng dẫn đầu cuộc rút lui ra biển. Một khi TQLC đã lên tàu, Sư đoàn 1 sẽ tiến hành cuộc rút lui của riêng mình đến bờ biển. Khi lực lượng miền Nam đến bờ biển, các đơn vị bộ binh sẽ được đưa lên tất cả các tàu có sẵn đến Đảo Vĩnh Lộc, chạy song song với bờ biển trong 30km về phía nam hướng đến Đà Nẵng. Các đơn vị QLVNCH và TQLC sẽ di chuyển xuống đảo, băng qua Cửa sông Tư Hiền, sẽ được các công binh QLVNCH bắc cầu, đi trên bộ để bắt Đường 1 ở phía nam Phú Lộc, rồi tiến vào Đà Nẵng. Mặc dù có vẻ hợp lý, nhưng kế hoạch đã nhanh chóng tan vỡ trong quá trình thực hiện.
Các đơn vị TQLC đã đến làng ven biển Tuấn An trong tình trạng tốt, nhưng họ thấy bến tàu và bãi biển chật cứng dân thường và thiết bị quân sự hạng nặng. Hơn nữa, lệnh từ bỏ Huế không được binh lính Sư đoàn 1 VNCH an tâm đón nhận, nhiều người trong số họ có gia đình ở khu vực này. Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm, một chỉ huy sư đoàn VNCH, nói với binh lính của mình, “Chúng ta đã bị phản bội. Chúng ta phải từ bỏ Huế. Bây giờ là lúc hồn ai nấy giữ. . . . Hẹn gặp lại ở Đà Nẵng.” Dưới sự chỉ đạo như vậy, cuộc rút lui của sư đoàn nhanh chóng trở thành một thảm họa. Các con đường đến bờ biển đã tràn ngập dân tị nạn, và khi chuỗi chỉ huy bị phá vỡ dưới sắc lệnh của Tướng Điểm, nhiều binh lính miền Nam chỉ đơn giản là hòa vào đám đông và bắt đầu đi tìm kiếm gia đình họ. Trong khi thảm họa này đang diễn ra, quân Bắc Việt đã tiến vào Kinh Thành Huế mà không gặp phải sự kháng cự nào.
TQLC và binh lính VNCH đã đến được đảo bắt đầu di chuyển về phía nam đến cửa sông. Vào sáng ngày 26 tháng 3, biển động, làm chậm việc lắp đặt cây cầu quan trọng và gây khó khăn cho việc đi từ bãi biển đến đảo. Quân Bắc Việt, phát hiện ra những gì mà địch đang cố gắng làm, đã chĩa súng vào đám đông đang chờ đợi trên bãi biển và vào quân đội và dân thường đang chờ hoàn thành cây cầu tại Tư Hiền, gây ra sự tàn phá và thương vong nặng nề.
Chuẩn đô đốc phụ trách cuộc vận chuyển đường biển, Hồ Văn Kỳ Thoại, đã nhìn thấy thảm họa tiềm tàng đang phát triển tại Tư Hiền và đã ra lệnh đánh chìm một đội thuyền nhỏ để tạo thành một con đường đắp cao qua cửa sông nơi quân đội và người tị nạn có thể đi bộ. Tuy nhiên, vào thời điểm này, kỷ luật đã hoàn toàn sụp đổ, và một nhóm lính phản loạn đã bắt giữ chuẩn đô đốc và buộc ông phải đưa họ đến Đà Nẵng. Những nỗ lực xây dựng con đường đắp cao đã dừng lại. Một số lính còn lại đã cố gắng bơi qua cửa sông, nhưng đã bị chết đuối do thủy triều dâng. Hải quân VNCH một lần nữa nỗ lực thực hiện một cuộc vận chuyển đường biển và đã kéo được khoảng 7.700 người khỏi đảo Vĩnh Lộc, nhưng biển động và hỏa lực pháo binh ngày càng chính xác đã cản trở nỗ lực của họ. Mặc dù một số lực lượng vận tải quân đội điều khiển tàu đổ bộ đã từ chối tiếp cận bờ, một trung đoàn của Sư đoàn 1 của VNCH cuối cùng đã được giải cứu. Một tàu khác chở khoảng 600 TQLC cũng đã thoát được. Tuy nhiên, hai tàu đổ bộ lớn chở lính đã bị nhấn chìm bởi biển động và một tàu khác bị đánh chìm do trúng trực tiếp một quả pháo. Xác người nằm la liệt trên mặt nước quanh đảo.
Việc rút lui khỏi Huế là một thảm họa không thể cứu vãn. Quân miền Nam đã bắt đầu trận chiến ở phía bắc Quân đoàn I trong tình trạng khá tốt. Nhiều binh lính và TQLC đã chiến đấu anh dũng, nhưng những mệnh lệnh khó hiểu dẫn đến việc từ bỏ các vị trí phòng thủ vững chắc đã làm suy yếu tinh thần của quân đội. Lãnh đạo kém, tính đoàn kết và kỷ luật của đơn vị đã tan rã, và nỗi lo lắng về an nguy của người thân đã nhanh chóng dẫn đến sự hoảng loạn và vô pháp hoàn toàn. Tình hình tệ hại đến mức quân đội thậm chí không thèm phá hủy vũ khí và thiết bị mà họ bỏ lại. Một sĩ quan báo cáo rằng mình đã để lại 37 xe tăng, tất cả đều đã được tiếp nhiên liệu và còn hoạt động, trên bãi biển khi anh ta và những người lính của mình chạy đến các tàu. Một sĩ quan cấp cao khác, khi đổ bộ lên Đà Nẵng, đã tóm tắt thái độ chung khi ông nói với một phóng viên, “Tôi thậm chí còn không biết vợ và gia đình mình ở đâu. Tại sao tôi phải quan tâm đến chỉ huy sư đoàn của mình?” Chỉ khoảng một phần ba binh lính cuối cùng đến được Đà Nẵng, và vô số dân thường đã chết trong cuộc di tản hỗn loạn đầy đau đớn. Sư đoàn 1 VNCH, niềm tự hào của quân đội, “đã mất đi không còn là một lực lượng có thể nhận dạng được” và không bao giờ được tái lập.
Trong khi thảm họa này đang diễn ra, Tướng Trưởng cũng phải đối phó với các cuộc tấn công của quân Bắc Việt ở phía nam Quân khu I, nơi tình hình không khá hơn là bao. Sau một số trận chiến ác liệt, Sư đoàn 2 VNCH, được tăng cường thêm Nhóm Biệt động 12 và do Chuẩn tướng Tướng Trần Văn Nhựt chỉ huy (cựu tỉnh trưởng Bình Long và là một trong những anh hùng của Trận An Lộc năm 1972), đã chặn đứng cuộc tấn công của quân Bắc Việt vào Tam Kỳ, thủ phủ của tỉnh Quảng Tín; nhưng vào ngày 24 tháng 3, Lữ đoàn Độc lập 52 của Sư đoàn 711 quân Bắc Việt đã tấn công một lần nữa với các đơn vị thiết giáp tăng cường. Đến trưa, thành phố đã rơi vào tay Cộng sản. Trưởng đã ra lệnh cho Trung đoàn 2 của Sư đoàn 3 VNCH đến Quảng Tín để hỗ trợ việc rút quân khỏi Tam Kỳ. Như đã xảy ra ở những nơi khác, chiến dịch trở nên khó khăn hơn do hàng nghìn thường dân di chuyển về phía bắc ra khỏi khu vực để đi đến nơi được cho là an toàn là Đà Năng. Ngoài ra, lính đặc công và trinh sát tiền tiêu pháo binh Bắc Việt có thể đã tiếp cận được thành phố bằng cách gia nhập với đoàn người tị nạn.
Xa hơn về phía nam trong Quân khu I, quân Bắc Việt đã tăng cường tấn công vào tỉnh Quảng Ngãi, cắt đứt Quốc lộ 1 giữa thành phố Quảng Ngãi và Chu Lai. Khi TQLC và Sư đoàn 1 VNCH ở phía bắc rút khỏi Huế và cố gắng thoát xuống đảo Vĩnh Lộc, Trưởng đã ra lệnh cho Sư đoàn 2 cùng với lực lượng địa phương quán Quảng Ngãi và gia đình của họ, di chuyển đến bờ biển, nơi họ sẽ được đón và đưa đến Đảo Ré, ngoài khơi cách Chu Lai hai mươi dặm. May mắn thay, cuộc di tản bằng đường biển này thành công hơn cuộc di tản ở phía bắc.
Trong khi đó, tình hình ở Đà Nẵng đã xấu đi đáng kể. Từ phía bắc, các sư đoàn quân Bắc Việt 324B và 325C, được tăng cường thêm một trung đoàn xe tăng và hai trung đoàn pháo binh, đã tấn công dọc theo Thung lũng Voi vào sườn phía tây của thành phố. Từ phía nam, sư đoàn 711 và 304, được tăng cường bởi lực lượng Mặt trận 44, đã tấn công các thị trấn Dục Đức và Đại Lộc. Khi quân Bắc Việt tấn công Đà Nẵng từ mọi phía, quần chúng, cả quân đội và dân sự, bên trong thành phố trở nên hoàn toàn hỗn loạn. Vào thời điểm này, thành phố 300.000 người đã bị tràn ngập gần 2 triệu người tị nạn từ Quảng Trị, Huế và Quảng Tín, tất cả đều kêu gào muốn thoát ra. Hàng ngàn kẻ lang thang và kẻ đào ngũ trấn lột dân tị nạn và cướp bóc thành phố chỉ làm tăng thêm sự hỗn loạn và hoảng loạn. Một sĩ quan cấp cao từ Quân đoàn I sau này nhớ lại rằng lúc đó Đà Nẵng đã “bị những cơn co giật của sự cuồng loạn tập thể xâm chiếm.” Hậu quả là, theo người thay thế Tướng Murray trong cơ quan DAO Sài Gòn, Thiếu tướng Homer Smith, “sự hỗn loạn ở Đà Nẵng vượt quá lý trí đã thực sự tước đoạt quyền kiểm soát thành phố biến nó thành một nơi vô chính phủ.” Mọi trật tự và kỷ luật bị phá vỡ. Một nỗ lực dàn dựng một cuộc không vận lớn đã thất bại khi hàng đoàn người tị nạn tràn ngập sân bay và vây quanh các máy bay khi chúng cố gắng cất cánh; hơn 200 máy bay đang hoạt động sau đó đã bị bỏ lại tại sân bay.
Từ Sài Gòn, Thiệu đã cố gắng tập hợp lực lượng của mình. Vào ngày 26 tháng 3, ông đã lên đài phát thanh và ban hành nhật lệnh thúc giục binh lính của mình ngăn chặn kẻ thù tiến lên “bằng mọi giá” và yêu cầu rằng “tất cả các lệnh chiến đấu phải được thực hiện nghiêm ngặt. . . . Tất cả các bạn phải quyết tâm và mạnh mẽ như một pháo đài mà những kẻ xâm lược, bất kể chúng có tàn bạo và cuồng tín đến đâu, cũng sẽ không thể làm lung lay. Những kẻ xâm lược cuối cùng sẽ bị đánh bại. Tôi đã dẫn dắt các bạn vượt qua nhiều hoàn cảnh nguy hiểm trong quá khứ. Lần này, tôi lại ở bên các bạn và,cùng với các bạn, quyết tâm chiến đấu và chiến thắng!” Thật dễ hiểu, quân đội và nhân dân ở Quân đoàn I không ai còn buồn tập hợp nữa. Lời kêu gọi của Thiệu rơi vào hiw không .
Dù sao thì vào ngày 28 tháng 3, Tướng Trưởng cũng đã họp lại với các chỉ huy của mình tại sở chỉ huy Quân đoàn I để cố gắng khôi phục trật tự và xây dựng một tuyến phòng thủ cuối cùng cho thành phố. Một lần nữa, tính đoàn kết của đơn vị đã hoàn toàn tan rã và nhiều đơn vị đã không còn tồn tại như những lực lượng chiến đấu có sức thuyết phục. Tham mưu trưởng của Tướng Trưởng sau đó đã báo cáo rằng “ngay cả tại sở chỉ huy Quân đoàn I, nhiều người lính đã đào ngũ. Những lính tài xế của chúng tôi, những liên lạc viên của chúng tôi, sĩ quan từ ban chỉ huy đại đội, họ cũng đã đào ngũ.” Đến 14h00, lực lượng địa phương quân trấn giữ các vòng ngoài của tiền đồn đã bỏ vị trí và gia nhập đám đông ở Đà Nẵng. Đến đêm, bộ đội Bắc Việt đã tiến vào ngoại ô thành phố. Trong khi đó, quân Bắc Việt cắt đứt Đường 1 giữa Đà Nẵng và Hội An, do đó cô lập thành phố với phía nam.
Khi đêm xuống, lực lượng Bắc Việt đã pháo kích sân bay Đà Nẵng và căn cứ hải quân. Đồng thời, họ bắn vào sở chỉ huy Quân đoàn I và các cơ sở quân sự quan trọng khác trong thành phố. Nỗ lực phản pháo bằng pháo 175 mm của Quân đội Việt Nam Cộng hòa phần lớn không hiệu quả, và quân Bắc Việt tiếp tục bắn vào thành phố. Dưới đòn tấn công này, các tuyến phòng thủ còn lại của Đà Nẵng đã sụp đổ và Tướng Trưởng đã gọi Tổng thống Thiệu yêu cầu cho sơ tán ngay khỏi thành phố. Tướng Viên báo cáo rằng Thiệu, mặc dù rất lo lắng về tình hình, nhưng chần chừ trả lời đối với yêu cầu của Trưởng. Rõ ràng là tổng thống không muốn một thảm họa khác như thảm họa ở Tây Nguyên, nhưng giống như những trường hợp trước, ông đã không chỉ đạo trực tiếp cho tư lệnh Quân đoàn I. Ngay khi Tướng Trưởng cúp máy, cuộc pháo kích của quân Bắc Việt đã cắt đứt các tuyến giữa Đà Nẵng và Sài Gòn. Trưởng, tin rằng tình hình là vô vọng, đã quyết định rút những lực lượng còn lại của mình khỏi Đà Nẵng và ra lệnh di dời quân đội của mình đến ba điểm lên tàu—cuối Đèo Hải Vân, chân núi Non Nước và rìa cửa sông Hội An.
Vào lúc rạng sáng ngày 29 tháng 3, Quân đoàn I bắt đầu di tản. Sương mù dày đặc buông xuống dọc theo bờ biển và thủy triều xuống đã ngăn cản các tàu tiếp cận bãi biển. Mặc dù binh sĩ phải lội và bơi ra tàu, nhưng cuộc lên tàu diễn ra suôn sẻ lúc đầu. Tuy nhiên, đến giữa sáng, đạn pháo Bắc Việt bắt đầu rót vào các bãi biển. Hỗn loạn nhanh chóng bao trùm chiến dịch, trở thành một thảm họa lặp lại ở Huế. Hàng ngàn binh lính và thường dân chạy ra biển để bị chết đuối khi cố gắng đến nơi an toàn của tàu. Hàng ngàn người khác chết dưới làn đạn pháo liên tục. Ước tính có khoảng 60.000 người chết khi cố gắng trốn khỏi Đà Nẵng. Khoảng 6.000 TQLC và 4.000 lính thuộc binh chủng khác đã thoát được, nhưng theo lời Tướng Trưởng, “không có nhiều quân nhân khác thoát ra được”.
Đến ngày 30 tháng 3, quân Bắc Việt đã chiếm Đà Nẵng và kiểm soát toàn bộ Quân khu I, bắt giữ hơn 100.000 binh lính miền Nam làm tù binh trong quá trình này. Ngoại trừ một số ít trường hợp đáng chú ý, không có trận chiến ác liệt nào xảy ra trong khu vực hoạt động của Quân đoàn I trước khi Đà Nẵng thất thủ. Trong hầu hết các trường hợp, quân đội miền Nam trong khu vực chỉ đơn thuần là ngừng hoạt động trong vai trò một lực lượng chiến đấu. Nhiều trong số 50.000 binh lính miền Nam đồn trú trong và xung quanh thành phố thậm chí không buồn giơ súng lên để bảo vệ thành phố. Một quan sát viên nhận xét rằng “Đà Nẵng không bị đánh chiếm; nó tan rã trong nỗi kinh hoàng của chính mình”.
Đối mặt với quân số và hỏa lực vượt trội và bị trói tay bởi tài lãnh đạo kém, thiếu kỷ luật, tin đồn, các mệnh lệnh mâu thuẫn và khó hiểu, và mối quan tâm đến người thân trong gia đình, phần lớn quân đội miền Nam đã từ bỏ chiến đấu và bắt đầu tự lo cho mình. Trong số ít trường hợp ngoại lệ là các đơn vị Thủy quân Lục chiến Việt Nam, từ lâu được coi là lực lượng tinh nhuệ của QLVNCH; họ thường duy trì được tính đoàn kết và kỷ luật của đơn vị ngay cả trong tình trạng hỗn loạn và mất trật tự. Tính chuyên nghiệp như vậy không phải là chuẩn mực; một sĩ quan cấp cao đã mô tả tình hình: “. . . những kẻ lang thang trà trộn vào dân chúng và lên xà lan dân sự và tàu thương mại. Thất vọng, đói khát và không có thủ lĩnh, họ trở nên điên cuồng và một số họ đã tham gia vào các hành vi cướp bóc không thể chấp nhận được. Hàng tỷ đô la thiết bị đã bị phá hủy và để lại cho kẻ thù. Như vậy là thành phố lớn thứ hai của Việt Nam đã sụp đổ. Thành phố ấy đã trải qua một giai đoạn loạn trí trước khi chết vì ngạt thở.”
Đến ngày 1 tháng 4, lực lượng Bắc Việt đã chiếm giữ toàn bộ Quân khu I và hầu hết Quân khu II. Khi chiếm được những khu vực này, họ đã tiêu diệt được ưu thế của hai quân đoàn VNCH đại diện cho hơn một nửa sức mạnh chiến đấu hiệu quả của QLVNCH. Tuy nhiên, một sư đoàn, Sư đoàn 22, đã cố gắng trụ vững ở Quân khu II, kiểm soát ba thành phố Qui Nhơn, Tuy Hòa và Nha Trang. Bốn trung đoàn của sư đoàn, Trưởng phòng Tình báo DAO Le Gro đánh giá, không chỉ “chiến đấu giỏi mà còn dũng cảm” dưới quyền Chuẩn tướng. Tướng Phan Đình Niệm chống lại sư đoàn 3 và 968 quân Bắc Việt, được tăng cường bởi Trung đoàn Độc lập 95B. Nhưng quân phòng thủ VNCH đã bị áp đảo và phải di tản bằng đường biển khi quân tiếp viện Bắc Việt bắt đầu tràn vào khu vực từ phía bắc sau trận chiến Đà Nẵng. Tuy nhiên, một số vẫn muốn ở lại chiến đấu. Theo Tướng Viên, hai trung đoàn trưởng của Sư đoàn 22 đã cầu xin chỉ huy sư đoàn ở lại tử thủ. Khi bị ông từ chối lời yêu cầu, viện dẫn đó là mệnh lệnh, hai đại tá đã từ chối rời đi và tự kết liễu đời mình. Chỉ có khoảng 2.000 sĩ quan và binh lính trốn thoát. Đến giữa tháng 4, Bắc Việt đã hoàn thành việc phá hủy một số ít ổ kháng cự của QLVNCH, và các tỉnh còn lại dọc theo bờ biển “sụp đổ như một hàng bình sứ trượt khỏi kệ”. (Xem bản đồ 17.)
Việc mất Quân khu I và II đã gây ra hậu quả tàn khốc đối với cả quân nhân và dân chúng, làm rung chuyển miền miền Nam đến tận gốc rễ. Một nửa quốc gia đã bị giao nộp cho kẻ thù với tương đối ít sự kháng cự. Việc mất Đà Năng, thành phố lớn thứ hai của quốc gia, theo lời của phó thủ tướng miền Nam, Tiến sĩ Phan Quang Đán, là “thảm họa đơn lẻ tồi tệ nhất trong lịch sử miền Nam”.
Ngoài việc mất lãnh thổ, quân đội miền Nam, thoát chạy trong hoảng loạn, đã bỏ lại hàng núi đạn dược, vật tư và thiết bị cho bên chiến thắng Bắc Việt đang thừa thắng xốc tới. Hơn 4.410 tấn đạn dược đã bị bỏ lại riêng tại kho Qui Nhơn. Không quân Việt Nam Cộng hòa đã bỏ lại 33 máy bay phản lực A-37 trên đường băng tại Đà Nẵng và gần 60 máy bay tại Căn cứ Không quân Phù Cát.
Cuộc di tản của hai vùng quân sự phía bắc, Davidson đã viết, trở thành “một hành động hèn nhát, mỗi người tự tìm lối thoát ra.” Khi được chỉ huy một cách khéo léo, quân đội miền Nam đã chiến đấu rất chuyên nghiệp, trong nhiều trường hợp đã thể hiện kỹ năng và lòng dũng cảm. Tuy nhiên, phần lớn binh lính đã theo gương các chỉ huy của mình, vốn thường là những kẻ đầu tiên rời bỏ chiến trường. Một sĩ quan QLVNCH nói rằng mình đã tìm hiểu với một số sĩ quan từ Quân đoàn I, họ nói với ông rằng “đầu tiên vị tư lệnh sư đoàn biến mất, tiếp theo là vị tư lệnh trung đoàn biến mất”. Với những hành động như vậy của các chỉ huy, không khó để hiểu tại sao quân đội miền Nam lại tan rã ở Quân đoàn I và II với tốc độ nhanh chóng đến kinh ngạc như vậy. Quân đội sụp đổ, như một quan sát viên đã viết, “giống như một ngôi nhà bị mối ăn mục ruỗng từ bên trong, bề ngoài vẫn trông có vẻ vững chắc cho đến khi nó thình lình sụp đổ”. Kể từ khi Việt Nam hóa, một dấu hỏi luôn treo lơ lửng trên sự tồn tại của quân đội miền Nam. Câu hỏi—Họ có thể cầm cự được bao nhiêu năm?—trở thành câu hỏi: Họ còn chiến đấu được bao nhiêu tuần?