P06-Bỏ rơi Việt Nam | Nghiên Cứu Lịch Sử
Bỏ rơi Việt Nam (Bài 6) | Nghiên Cứu Lịch Sử
James H. Willbanks | Trần Quang Nghĩa dịch
6 Bài Kiểm Tra Cuối Cùng của Chính Sách Việt Nam Hóa
TÌNH HÌNH ĐẦU NĂM 1972
Khi năm 1972 bắt đầu, tình hình ở miền Nam có vẻ đang được cải thiện.
Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN), vốn bận rộn chỉnh đốn các đơn vị bị tổn thất trong cuộc xâm lược Lào của quân đồng minh, chỉ tiếp tục lại các hoạt động tấn công hạn chế vào nửa năm cuối 1971. Kết quả là, nỗ lực bình định đã đạt được những thành quả to lớn. Một nhà quan sát, phóng viên và cựu đại tá Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ Robert D. Heinl, đã đi xa hơn khi cho biết vào năm 1972, “Nếu bình định thành công là thước đo, thì cuộc chiến ở Việt Nam đã được giải quyết. Chúng ta đã chiến thắng.”
Đây là một lời nói cường điệu, nhưng đến cuối năm 1971, Khảo sát Đánh giá Nông thôn của MACV chỉ ra rằng 97 phần trăm các làng mạc và thôn xóm ở miền Nam hoàn toàn an ninh hoặc tương đối an ninh.
Mặc dù vẫn còn gây tranh cãi, nhưng số liệu thống kê cho thấy rõ ràng tình hình an ninh ở nông thôn đã tốt hơn nhiều so với trước đây. Robert Thompson, cố vấn không chính thức của Tổng thống Nixon về các vấn đề ở Việt Nam, đã thực hiện một chuyến đi đến miền Nam vào cuối năm 1970 và báo cáo, “Một trong những trải nghiệm thú vị nhất của tôi là lái chiếc xe máy Honda của Quận trưởng đi vòng quanh các ngôi làng ở tỉnh Quảng Tín hoàn toàn không cần có người hộ tống trong một khu vực mà chỉ hai năm trước, chính thị trấn của quận đã bị vây hãm và chỉ mới được chiếm giữ lại.”
Lực lượng bộ binh của miền Nam đã phục hồi phần nào sau những tác động tàn khốc của Lam Sơn 719. Các đơn vị bị thương vong nghiêm trọng ở Lào đã được bổ sung hoặc thay thế để trở lại tình trạng phục hồi sức mạnh hoàn toàn, và chương trình huấn luyện vũ trang kết hợp đã bắt đầu cho thấy những dấu hiệu tiến bộ Về mặt thuần số lượng, lực lượng chính quy của miền Nam đã tăng lên hơn một triệu nam nữ có vũ trang vào đầu năm 1972. Một sư đoàn mới, Sư đoàn 3 Bộ binh, đã được thành lập tại Quân Đoàn I từ các trung đoàn được rút ra từ các sư đoàn khác và được triển khai dọc theo DMZ (Khu Phi Quân sự). Lực lượng tự vệ bán quân sự đã tăng gấp ba lần lên hơn bốn triệu. Lực lượng Hải quân và Thủy quân Lục chiến đã tăng gấp đôi, và lực lượng Không quân đã tăng gấp hai lần rưỡi. Để trang bị cho các lực lượng mở rộng này, Hoa Kỳ đã cung cấp 844.000 vũ khí cá nhân và 1.880 xe tăng và pháo, một số lượng lớn máy ủi và các thiết bị kỹ thuật hạng nặng khác, 44.000 bộ vô tuyến và 778 trực thăng và máy bay cánh cố định. Đến đầu năm 1972, trên lý thuyết, Không quân Việt Nam Cộng hòa là một lực lượng đáng gờm. Nó sẽ sớm được thử nghiệm theo cách quyết liệt nhất.
Trong khi nỗ lực Việt Nam hóa được đẩy mạnh, việc rút quân của Hoa Kỳ vẫn tiếp tục theo đúng kế hoạch, với 177.000 người Mỹ rời đi vào năm 1971. Đến tháng 1 năm 1972, quân số của Hoa Kỳ tại Việt Nam là 158.000, mức thấp nhất kể từ năm 1965. Vào tháng đó, Nixon tuyên bố rằng ông sẽ rút thêm 70.000 quân khỏi Miền Nam vào ngày 1 tháng 5. Khi lực lượng chiến đấu của Hoa Kỳ bị cắt giảm để đáp ứng lịch trình mới này, một sự cắt giảm tương ứng đã diễn ra tại các sở chỉ huy cấp cao của Hoa Kỳ tại bản xứ, bao gồm MACV (Bộ Chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại VN), USARV: Quân đội Hoa Kỳ tại VN, Không lực 7 và Lực lượng Đổ bộ TQLC 3. Nhiều bộ tư lệnh lớn và phức tạp của Hoa Kỳ phụ trách tình báo, hậu cần và các loại hỗ trợ khác, chẳng hạn như thông tin liên lạc, đã bị giải thể và binh sĩ Hoa Kỳ đã được gửi về nước. Theo đó, nhiều căn cứ lớn hơn do Hoa Kỳ xây dựng đã được chuyển giao cho miền Nam. Ví dụ, vào cuối năm 1971, Không lực Hoa Kỳ đã chuyển giao 10 trong số 15 căn cứ không quân cho Không lực Việt Nam.
Do liên tục rút quân, cơ cấu cố vấn cũng bị thu hẹp đáng kể. Vào cuối năm 1971, Tướng Abrams đã giải thể Văn phòng MACV của Trợ lý Tham mưu trưởng về Hỗ trợ Quân sự, trước đây chịu trách nhiệm điều phối mọi nỗ lực cố vấn ở Miền Nam, chuyển giao nhiệm vụ của mình cho các bộ phận tham mưu liên quan của MACV. Ban huấn luyện MACV được giao trách nhiệm quản lý Chương trình Hỗ trợ Quân sự, bao gồm hỗ trợ của Hoa Kỳ cho nỗ lực đào tạo Không quân Việt Nam Cộng hòa.
Đầu năm 1972, Abrams đã ra lệnh tổ chức lại MACV, chuyển đổi từ một sở chỉ huy hoạt động thành một nhóm cố vấn kết hợp. Trong khi Abrams tổ chức lại sở chỉ huy MACV, ông cũng thực hiện các bước để giảm lực lượng cố vấn Hoa Kỳ trên chiến trường. Các sở chỉ huy lớn của Hoa Kỳ trước đây kiểm soát các hoạt động ở mỗi quân khu (vùng chiến thuật của quân đoàn) đã được thay thế bằng các nhóm cố vấn vùng nhỏ. Quân đoàn 24 của Lục quân Hoa Kỳ và Nhóm cố vấn Quân đoàn I trở thành Bộ Tư lệnh Hỗ trợ Vùng 1. Lực lượng Dã chiến I và Nhóm cố vấn Quân đoàn II trở thành Nhóm Hỗ trợ Vùng 2. Lực lượng Dã chiến II và Nhóm Cố vấn Quân đoàn III trở thành Bộ Tư lệnh Hỗ trợ Vùng 3. Bộ Tư lệnh Hỗ trợ Quân sự Đồng bằng và Nhóm Cố vấn Quân đoàn IV kết hợp để thành lập Bộ Tư lệnh Hỗ trợ Vùng Đồng bằng.
Chỉ huy của mỗi bộ tư lệnh hỗ trợ vùng là chỉ huy cấp cao của Hoa Kỳ trong vùng (một thiếu tướng quân đội), người chỉ huy các đơn vị Hoa Kỳ trong vùng và là cố vấn cấp cao cho chỉ huy quân đoàn. Một ngoại lệ duy nhất đối với sự sắp xếp này là ở Quân khu II, nơi Abrams bổ nhiệm một viên chức dân sự, John Paul Vann, làm người đứng đầu Nhóm hỗ trợ vùng 2. Vì là một dân sự, nên ông có một sĩ quan cấp tướng của Quân đội Hoa Kỳ làm phó cho mình, người này chỉ huy các thành viên quân sự của nhóm cố vấn và các lực lượng Hoa Kỳ khác còn lại trong vùng.
Ở các cấp thấp hơn, Abrams ra lệnh cắt giảm các đội hỗ trợ chiến đấu của sư đoàn, đóng cửa các đội cố vấn cấp tiểu đoàn vào ngày 30 tháng 6 năm 1971 và bắt đầu loại bỏ dần các đội cấp trung đoàn vào tháng 9. Đến đầu năm 1972, chỉ còn 5.416 cố vấn chiến thuật ở khắp Miền Nam. Các trường và trung tâm đào tạo tỉnh, huyện, và các yếu tố cố vấn khác bị cắt giảm số lượng tương ứng, và số lượng nhân viên cố vấn CORDS (Xây dựng Nông thôn) tại MACV và cấp tỉnh và huyện đã giảm hơn một nửa trong năm 1971 (6.147 xuống còn 2.682).
Mặc dù số lượng tương đối ít, các cố vấn đã đảm nhận ngày càng nhiều vai trò quan trọng hơn khi lực lượng chiến đấu của Hoa Kỳ rút lui, thực hiện các chức năng quan trọng khi những nỗ lực chuyển giao chiến tranh cho QLVNCH ngày càng mạnh mẽ. Khi lực lượng chiến đấu của Hoa Kỳ rời khỏi miền Nam, các cố vấn chiến thuật trên chiến trường trở thành đầu mối liên lạc và phối hợp giữa QLVNCH và các nguồn hỗ trợ chiến đấu của Hoa Kỳ vẫn còn ở lại trong nước. Mặc dù vào thời điểm này, rất ít lực lượng Hoa Kỳ hoạt động trong các vai trò chiến đấu trên bộ tại Việt Nam, nhưng sức mạnh không quân chiến thuật của Hoa Kỳ vẫn còn hiện hữu rõ ràng trên khắp chiến trường. Không quân Hoa Kỳ và máy bay Thủy quân Lục chiến hoạt động từ các căn cứ ở Miền Nam và Thái Lan, trong khi Hải quân Hoa Kỳ và các máy bay Thủy quân Lục chiến khác hoạt động từ các tàu sân bay ở Biển Đông. Máy bay ném bom hạng nặng B-52 thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên từ các căn cứ ở Guam và Thái Lan. Ngoài ra, trực thăng của Quân đội Hoa Kỳ tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ hỗ trợ mặt đất trên khắp miền Nam. Các cố vấn Hoa Kỳ trên thực địa đã tạo ra một mối liên kết vô giá giữa miền Nam và sự hỗ trợ này, một vai trò sẽ chứng minh là rất quan trọng trong hành động tiếp theo vào năm 1972.
QUÂN MIỀN BẮC QUYẾT ĐỊNH TẤN CÔNG
Bộ Chính trị Miền Bắc tại Hà Nội đã bắt đầu thảo luận về khả năng một cuộc tổng tấn công tại Phiên họp toàn thể lần thứ 19 của Đảng Lao động vào tháng 12 năm 1970 và tháng 1 năm 1971, nhưng giới lãnh đạo đã chia rẽ về vấn đề này. Tổng Bí thư Lê Duẩn và Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người hùng của Điện Biên Phủ, nằm trong số những người ủng hộ mạnh mẽ hơn cho một cuộc tổng tấn công. Lê Duẩn là người miền Nam, người cho rằng việc khuất phục hoàn toàn miền Nam là con đường đúng đắn duy nhất về mặt ý thức hệ cần theo đuổi. Có thể, như Tướng Dave Palmer gợi ý, động cơ thúc đẩy cuộc tấn công của Giáp có thể là ông vẫn đang “cay đắng vì thất bại của các cuộc tấn công năm 1965 và 1968” và đang tìm kiếm một chiến thắng quyết định cuối cùng để giành chiến thắng trong cuộc chiến.
Tuy nhiên, Giáp và Lê Duẩn bị phe bảo thủ hơn do Trường Chinh lãnh đạo phản đối, phe này muốn tập trung vào việc xây dựng lại miền Bắc trong khi hoãn mọi nỗ lực thúc đẩy thống nhất với miền Nam. Cuối cùng, Giáp và Lê Duẩn đã chiến thắng.
Vào tháng 5 năm 1971, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Hà Nội để thảo luận về hậu quả của chiến dịch của quân miền Nam tại Lào. Giáp và Lê Duẩn hồ hởi bởi các trải nghiệm của họ với quân đội miền Nam tại Lào. Trận Lam Sơn 719 dường như củng cố niềm tin của QĐNDVN rằng, với vũ khí hiện đại và chiến thuật thông thường, họ có thể dễ dàng đánh bại lực lượng vũ trang của miền Nam một khi lực lượng chiến đấu của Hoa Kỳ đã rút lui. Những điểm yếu mà quân miền Nam ở Lào thể hiện—Sài Gòn thiếu lực lượng dự bị chiến lược đáng kể và không có khả năng điều động lực lượng nhanh chóng trong miền Nam—đều quá rõ ràng. Về hành động có thể xảy ra của Hoa Kỳ chống lại bất kỳ cuộc tấn công nào được tính toán, Bắc Việt nhận thức được rằng việc tiếp tục cắt giảm quân đội Hoa Kỳ sẽ đạt đến điểm khi đó Hoa Kỳ sẽ không còn đủ lực lượng để tác động đến tình hình chiến lược. Hơn nữa, Giáp và Lê Duẩn không nghĩ rằng tình hình chính trị ở Hoa Kỳ sẽ cho phép Nixon tung ra bất kỳ lực lượng mới nào hoặc hỗ trợ miền Nam chiến đấu một khi QĐNDVN phát động cuộc xâm lược. Họ cũng cảm thấy Nixon, trong nỗ lực hòa hoãn với Liên Xô, sẽ miễn cưỡng thực hiện bất kỳ biện pháp nào để ngăn chặn một cuộc tấn công có thể làm đảo lộn các cuộc đàm phán kiểm soát vũ khí chiến lược. Vì những lý do này, Giáp và Lê Duẩn tin rằng Bắc Việt có thể tấn công miền Nam với ít hoặc không có sự can thiệp đáng kể nào từ Hoa Kỳ. Ngoài ra, họ nghĩ rằng một chiến thắng quân sự vang dội của Bắc Việt sẽ làm bẽ mặt tổng thống Hoa Kỳ, phá hủy nền chính trị chiến tranh của ông, và có lẽ sẽ làm thất bại nỗ lực tái tranh cử của ông vào tháng 11. Nếu họ có thể gây ra thất bại cho Sài Gòn, thiệt hại cho chương trình Việt Nam hóa và Học thuyết Nixon cũng có thể góp phần vào thất bại của tổng thống Hoa Kỳ. Vì tất cả những đối thủ tiềm năng của Nixon trong cuộc bầu cử đều có vẻ ít nhiều theo xu hướng đưa Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam, nên bất cứ điều gì họ có thể làm để góp phần vào thất bại của ông ta đều là một điểm cộng. Cũng theo hướng này, Trương Như Tảng đã viết sau chiến tranh rằng một mục tiêu bổ sung của cuộc tấn công là thúc đẩy sự bất đồng chính kiến của phe phản chiến ở Hoa Kỳ.
Tình hình quốc tế cũng ảnh hưởng đến quyết định phát động cuộc tấn công của Hà Nội. Các nhà lãnh đạo Bắc Việt đã theo dõi hoạt động ngoại giao đang phát triển của Washington với Moscow và Bắc Kinh với một chút lo lắng. Họ không chắc chắn những mối quan hệ nồng ấm này sẽ ảnh hưởng như thế nào đến mối quan hệ liên tục của miền Bắc với những nhà bảo trợ Cộng sản của mình, hoặc sự hỗ trợ mà miền Bắc nhận được cho nỗ lực chiến tranh chống lại miền Nam. Do đó, một cuộc tổng tấn công là phương tiện duy nhất có thể của Hà Nội để buộc phải giải quyết theo các điều kiện của riêng mình.
Sau khi Bộ Chính trị quyết định phát động cuộc tấn công, các thành viên của bộ đã tranh luận về câu hỏi khi nào cuộc tấn công sẽ bắt đầu. Các nhà lãnh đạo Bắc Việt đã lưu ý Thông báo rút quân của Nixon, theo dõi lực lượng Hoa Kỳ rời khỏi miền Nam, và tính toán rằng quân số Hoa Kỳ có thể sẽ giảm xuống dưới 65.000 vào tháng 4 năm 1972. Con số này sẽ bao gồm các sở chỉ huy và các đơn vị hỗ trợ chiến đấu, nhưng chỉ có một số ít tiểu đoàn chiến đấu và một số máy bay chiến thuật và trực thăng, một lực lượng mà QĐNDVN coi là không đáng kể về mặt quân sự. Một số người trong Bộ Chính trị lập luận rằng thời điểm hoạt động tốt nhất là chờ đến năm 1973, khi hầu như toàn bộ quân đội Hoa Kỳ sẽ rời đi. Lê Duẩn và phe cánh ông đã bác bỏ lập luận này, đưa ra lập luận mạnh mẽ rằng các chương trình bình định và Việt Nam hóa đang bắt đầu cho thấy những dấu hiệu tiến triển. Họ cho rằng nếu những chương trình này được phép tiếp tục không bị cản trở trong phần còn lại của năm 1972, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục bơm vũ khí và trang thiết bị vào miền Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hòa sẽ phát triển mạnh hơn, do đó khiến cho cuộc chinh phục quân sự miền Nam trong tương lai sẽ trở nên khó khăn hơn nhiều. Lê Duẩn và Giáp đã thành công trong việc thuyết phục các đồng chí của mình tại cuộc họp của Quân Ủy Trung ương vào tháng 6 năm 1971 rằng họ không nên chờ đợi, và sau đó Quân ủy đã quyết định “phát triển thế trận tấn công chiến lược của chúng ta ở miền Nam để đánh bại chính sách ‘Việt Nam hóa’ của Mỹ, giành chiến thắng quyết định vào năm 1972 và buộc đế quốc Mỹ phải đàm phán chấm dứt chiến tranh từ vị thế thất bại”.
Sau khi quyết định phát động cuộc xâm lược vào năm 1972, các nhà hoạch định sau đó phải xác định thời điểm chính xác. Như thường lệ, mùa gió mùa quyết định thời điểm tốt nhất cho các hoạt động chiến đấu ở miền Nam. Nếu Bắc Việt đợi đến qua mùa xuân khô ráo mới bắt đầu tấn công, những trận mưa như trút nước vào cuối tháng 5 có thể cản trở nghiêm trọng các giai đoạn sau của chiến dịch. Một cân nhắc khác là việc phát hiện lực lượng của họ trước khi xâm lược sẽ cung cấp các mục tiêu có lợi cho việc hỗ trợ chiến thuật trên không của Hoa Kỳ; do đó, Bắc Việt càng đợi lâu trước khi bắt đầu chiến dịch, họ càng khiến lực lượng của mình gặp nguy hiểm. Các nhà lãnh đạo Cộng sản cũng muốn bắt đầu cuộc xâm lược kịp thời để có tác động tối đa đến cuộc bầu cử Hoa Kỳ vào tháng 11, điều này chỉ có thể thực hiện được bằng cách bắt đầu cuộc tấn công sớm hơn, thay vì muộn hơn. Cuối cùng, nếu họ có thể gây ra thất bại cho miền Nam trong khi lực lượng Hoa Kỳ vẫn còn ở trong nước, Bắc Việt có thể tuyên bố một chiến thắng quân sự trước người Mỹ bị sỉ nhục. Vì những lý do này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định phát động cuộc tấn công vào tháng 3 năm 1972.
Để chuẩn bị cho cuộc tấn công, Bắc Việt đã khởi xướng một “cuộc tấn công hậu cần”. Lê Duẩn đã đến Moscow yêu cầu hỗ trợ dưới hình thức vũ khí và thiết bị mới. Một lời kêu gọi cũng được gửi đến Bắc Kinh. Sau đó, Bắc Việt đã nhận được một lượng lớn vũ khí hiện đại từ Liên Xô và Trung Quốc, bao gồm máy bay phản lực chiến đấu MIG-21, tên lửa phòng không SAM, xe tăng T-54, pháo 130 mm, súng cối 160 mm, pháo phòng không 57 mm, và lần đầu tiên, tên lửa phòng không SA-7 “Strela” tầm nhiệt, bắn từ vai. Bắc Việt cũng bắt đầu tích trữ phụ tùng, đạn dược và nhiên liệu với số lượng lớn hơn nhiều so với báo cáo trước đây.
Các sư đoàn quân dự bị chung của QĐNDVN cũng được lệnh di chuyển về phía nam để vào vị trí cho cuộc xâm lược.
KẾ HOẠCH
Quân đội Bắc Việt gọi cuộc xâm lược này là chiến dịch “Nguyễn Huệ” để tôn vinh Hoàng đế Quang Trung, một anh hùng dân tộc Việt Nam đã đánh bại quân xâm lược Trung Quốc một cách vang dội ngay bên ngoài kinh đô Thăng Long vào năm 1789. Tại Hoa Kỳ, cuộc xâm lược của QĐNDVN sẽ được gọi là “Chiến dịch Phục sinh”.
Những người xây dựng nên chiến dịch Nguyễn Huệ là Tướng Giáp và tham mưu trưởng của ông, Tướng Văn Tiến Dũng. Theo các tài liệu và thông tin thu được từ các tù binh chiến tranh của QĐNDVN sau cuộc xâm lược, chiến dịch của Giáp được thiết kế để tiêu diệt càng nhiều lực lượng QĐVNCH càng tốt, do đó cho phép QĐNDVN chiếm đóng các thành phố quan trọng của miền Nam. Trong tư thế này, lực lượng Cộng sản có thể đe dọa chính phủ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Đồng thời, Giáp hy vọng sẽ làm mất uy tín các chương trình Việt Nam hóa và bình định của Nixon, khiến các lực lượng Hoa Kỳ còn lại phải rút lui, và cuối cùng là giành quyền kiểm soát miền Nam. Mặc dù Bắc Việt hy vọng sẽ đạt được một đòn hạ gục và đánh bại hoàn toàn các lực lượng miền Nam, cuộc tấn công, ít nhất, chắc chắn sẽ chiếm được đủ địa hình để củng cố vị thế của Cộng sản trong bất kỳ cuộc đàm phán hòa bình nào sau đó.
Kế hoạch của Giáp bao gồm một cuộc xâm lược miền Nam ồ ạt, gồm ba mũi nhọn nhắm vào ba khu vực quan trọng. Mũi tấn công đầu tiên sẽ nhắm vào thủ phủ tỉnh Quảng Trị ở Quân khu I; mũi thứ hai tại An Lộc, ở Tỉnh Bình Long, Quân khu III, phía tây bắc Sài Gòn; và mũi thứ ba tại Kontum ở Tây Nguyên, Quân khu II (xem bản đồ 8).
Ở phía bắc, sư đoàn 304 và 308, cùng với ba trung đoàn bộ binh riêng biệt, được tăng cường thêm 200 xe tăng và một số trung đoàn pháo binh, sẽ tấn công qua DMZ (Khu Phi Quân sự) để chiếm Quảng Trị. Cùng lúc đó, Sư đoàn 324B sẽ tấn công từ phía tây để chiếm Huế, đồng thời đe dọa sân bay và bến cảng tại Đà Nẵng. Mục tiêu của cuộc tấn công phía bắc là trục xuất tất cả lực lượng miền Nam khỏi Quảng Trị và Thừa Thiên, hai tỉnh cực bắc, do đó thực sự mở rộng biên giới của Bắc Việt Nam về phía nam.
Cuộc tấn công cực nam cũng sẽ bao gồm ba sư đoàn của QĐNDVN (thứ 5 VC, thứ 7 QĐNDVN và thứ 9 VC) và sẽ nhằm mục đích chiếm An Lộc, thủ phủ của tỉnh Bình Long, chỉ cách Sài Gòn sáu mươi lăm dặm. Từ An Lộc, QĐNDVN sẽ tấn công xuống Đường 13 để đe dọa chính Sài Gòn. Cần lưu ý ở đây rằng mặc dù một số sư đoàn Quân Bắc Việt được gọi là sư đoàn “VC”, nhưng thực tế chúng là sư đoàn Quân Bắc Việt mang danh hiệu “VC” chỉ như một danh hiệu danh dự; chúng được tổ chức, biên chế và trang bị giống như tất cả các sư đoàn chủ lực khác của Quân đội Bắc Việt.
Mũi nhọn thứ ba của cuộc xâm lược sẽ là một cuộc tấn công vào Cao nguyên Trung phần tại Kontum và Pleiku của sư đoàn 2 và 320, được hỗ trợ bởi một trung đoàn xe tăng. Ngoài ra, Sư đoàn 3 “Sao Vàng” sẽ tiến hành một cuộc tấn công hỗ trợ vào tỉnh ven biển Bình Định. Mục tiêu cuối cùng trong khu vực này là các lực lượng tấn công Pleiku và Kontum sẽ liên kết với Sư đoàn 3 ở Bình Định để cắt miền Nam thành hai phần dọc theo Đường 19, một tuyến đường đông-tây chính từ bờ biển đến Cao nguyên. Đồng thời, Sư đoàn 711 của Quân đội Bắc Việt sẽ đe dọa Đà Nẵng từ phía tây nam.
Các lực lượng Quân đội Bắc Việt bổ sung ở Quân khu IV, bao gồm Sư đoàn 1, ở khu vực biên giới Campuchia phía tây Sông Cửu Long, và các đơn vị Quân đội Bắc Việt khác ở Rừng U Minh (Tỉnh Chương Thiện) sẽ tham gia cuộc tấn công bằng các cuộc tấn công cục bộ để chiếm lãnh thổ và trói chặt lực lượng QĐVNCH để họ không thể di chuyển về phía bắc nhằm tiếp viện cho lực lượng QĐVNCH đang bị tấn công ở các quân khu khác. Tổng cộng có 14 sư đoàn bộ binhi Bắc Việt và 26 trung đoàn riêng biệt (tương đương với hơn 20 sư đoàn QĐVNCH), tổng cộng hơn 130.000 quân Cộng sản và 1.200 xe tăng và xe bọc thép khác, sẽ tham gia vào cuộc tấn công. Quy mô này đại diện cho toàn bộ lực lượng chiến đấu của Bắc Việt, trừ Sư đoàn 316, tiếp tục hoạt động ở Lào trong suốt thời gian diễn ra cuộc tấn công.
Kế hoạch của Giáp táo bạo và có phần mạo hiểm, nhưng ông đã tính đến cuộc tấn công đồng thời vào ba khu vực chính để làm tan rã QLVNCH và do đó ngăn chặn Sài Gòn quyết định triển khai lực lượng dự bị quốc gia. Bất kỳ ba mũi tấn công nào, nếu thành công, đều có thể tác động lớn đến cục diện của cuộc chiến. Mũi phía bắc có thể cắt đứt hai tỉnh phía bắc. Mũi Tây Nguyên có thể cắt đứt miền Nam thành hai. Mũi phía nam cuối cùng có thể đẩy lực lượng Bắc Việt tiến vào thủ đô Sài Gòn. Việc thực hiện bất kỳ mục tiêu nào trong số này sẽ đưa Bắc Việt vào vị thế ưu thế hơn trong các cuộc đàm phán sau này. Nếu cả ba mũi tấn công đều thắng lợi, chiến tranh sẽ kết thúc và miền Nam sẽ bị đánh bại, do đó không cần đàm phán. Dù bằng cách nào, Bắc Việt vẫn có lợi. Như một thông cáo của Mặt trận B-5 Cộng sản (phía bắc miền Nam) đã nêu ra trước cuộc tấn công, “Không cần biết chiến tranh có kết thúc sớm hay không . . ., chúng ta sẽ có khả năng giành chiến thắng quyết định.”
NGÀY D
Quy mô chuẩn bị của Bắc Việt cho các hoạt động tấn công đã thoát khỏi các nhà phân tích tình báo đồng minh cho đến tận cuối năm 1971. Việc nhìn nhận những hoạt động chuẩn bị này đã bị trì hoãn mặc dù có nhiều báo cáo về việc tăng cường lưu lượng xe hạng nặng trên Đường mòn Hồ Chí Minh trong mùa hè năm 1971. (Các báo cáo đến từ Nhóm Nghiên cứu và Quan sát tuyệt mật [SOG], các đội trinh sát tầm xa được đưa vào các điểm then chốt dọc theo đường mòn để theo dõi hoạt động của kẻ thù. Rõ ràng là phớt lờ những chỉ dấu này, vào đầu tháng 11 năm 1971, CIA đưa ra một đánh giá chính thức về ý định của kẻ thù trong năm 1972, đã nêu rõ:
“Một điều mà Hà Nội không thể làm trong những tháng còn lại của mùa khô này—đó là không thể phát động một cuộc tấn công quân sự trên toàn quốc với quy mô gần bằng Mùa Tết Mậu Thân năm 1968.” Cùng tháng đó, một ước tính tình báo khác cũng đồng tình, dự đoán rằng “Bắc Việt không có nỗ lực đặc biệt nào” cho một cuộc tấn công lớn vào năm 1972.
Một loạt các báo cáo mới đã thay đổi đáng kể bức tranh tình báo vào tháng 12: các đội hình quân sự hùng hậu với xe tăng và pháo hạng nặng đang triển khai ở miền Bắc và bắt đầu di chuyển xuống Đường mòn Hồ Chí Minh. Các báo cáo khác kể về các đơn vị mới đang được thành lập và di chuyển về phía nam. Cuối tháng 12, các đồng minh đã nhận được một bản sao của một quyết sách Bắc Việt không đánh số nêu rõ hướng dẫn cho các hoạt động trong tương lai. Nghị quyết chỉ ra sự thay đổi về chiến thuật từ chiến tranh kéo dài sang chiến tranh quy ước, kêu gọi “làm thay đổi cán cân lực lượng thông qua việc sử dụng chiến tranh chủ lực và thế tiến công chính trị”.
Đến cuối năm, cả các nhà phân tích tình báo Hoa Kỳ và miền Nam đều đồng ý rằng một cuộc tấn công của Bắc Việt vào đầu năm 1972 là có thể xảy ra.
Cuối năm 1971, Bắc Việt đã cắt đứt các cuộc đàm phán ở Paris; rõ ràng là họ đang chuẩn bị cho các hoạt động tấn công vào miền Nam. Khi Quân đội Bắc Việt pháo kích Sài Gòn vài ngày sau khi từ chối gặp Kissinger cho cuộc họp dự kiến vào ngày 20 tháng 11, Nixon đã ra lệnh tái lập các cuộc ném bom ở phía nam vĩ tuyến 20 để ngăn cản sự tập kết của Cộng sản. Việc ném bom chứng tỏ là không đủ để đạt được mục tiêu của tổng thống.
Vào cuối tháng 12, tình báo đồng minh cảnh báo rằng Bắc Việt có khả năng thực hiện một cuộc tấn công lớn và dự đoán rằng có thể họ sẽ mở màn cuộc tấn công vào thời điểm nào đó trước kỳ nghỉ Tết Nguyên đán, có thể là vào cuối tháng 1.
Vào ngày 16 tháng 1, Tướng Abrams đã gửi một thông điệp cho Đô đốc McCain, nói rằng các chỉ số tình báo “theo quan điểm của tôi đều chỉ ra khá rõ về một hành động quân sự lớn của Bắc Việt trong những tuần tới. Trên thực tế, theo quan điểm của tôi, điều đó sẽ phát triển thành nỗ lực quân sự tối đa mà Bắc Việt có thể thực hiện trong vài tháng tới.”
Ba ngày sau, trong một thông điệp tiếp theo, ông nói rằng “kẻ thù đang chuẩn bị và bố trí lực lượng của mình cho một cuộc tấn công lớn. Mặc dù chúng ta không thể chắc chắn vào thời điểm này về kế hoạch tấn công chính xác của địch, nhưng rõ ràng là địch sẽ cố gắng đối mặt với chúng ta trong tình huống khó khăn nhất có thể.”
Tuy nhiên, không có gì xảy ra vào tháng 1, và một ước tính tình báo sau đó dự đoán rằng cuộc tấn công sẽ diễn ra trong kỳ nghỉ Tết vào giữa tháng 2. Một ước tính tình báo khác chỉ ra rằng các cuộc tấn công, khi chúng xảy ra, rất có thể sẽ xảy ra ở các tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên thuộc Quân khu I, và các tỉnh Kontum và Pleiku thuộc Quân khu II.
Đại sứ Bunker, không lường trước được phạm vi của cuộc tấn công sắp tới của Bắc Việt, đã dự đoán rằng Bắc Việt sẽ tiến hành “một loạt các cuộc tấn công trên bộ nghiêm trọng và kéo dài trong nhiều tuần”, nhưng suy đoán rằng “mục tiêu của kẻ thù… không phải là quân sự, mà là chính trị và tâm lý”. Tuy nhiên, Bộ Tổng tham mưu đã ra lệnh cho các chỉ huy của QĐVNCH hủy bỏ các kỳ nghỉ phép và giữ binh sĩ trong doanh trại sẵn sàng chiến đấu, nhưng rồi Tết đã trôi qua mà không có bất kỳ hoạt động đáng kể nào của kẻ thù.
Các phương tiện truyền thông Hoa Kỳ, vốn đã chỉ trích gay gắt quân đội vì đã bị đánh bất ngờ vào năm 1968, giờ đây lại chế giễu họ vì đã dự đoán một cuộc tấn công không xảy ra. Tạp chí Life số ra ngày 24 tháng 3 năm 1972 đã viết trong một bài xã luận:
“Bạn còn nhớ tất cả những dự đoán về cuộc tấn công Tết năm nay không? ‘Kẻ thù đã quảng cáo một cuộc tấn công như họ chưa từng quảng cáo bất kỳ cuộc tấn công nào khác ở Việt Nam’, Bộ trưởng Quốc phòng Mel Laird đã nói vào tháng 1. Tham mưu trưởng Lục quân Westmoreland dự đoán rằng cuộc tấn công sẽ diễn ra vào tháng 2 và Lầu Năm Góc suy đoán rằng cuộc tấn công đã được lên kế hoạch để làm bẽ mặt Tổng thống vào ngày trước chuyến đi của ông tới Bắc Kinh. Vâng, Tết và chuyến đi của Tổng thống đã qua, và cuộc tấn công không hề xảy ra.”
Các chỉ số tình báo vẫn chỉ ra một cuộc tấn công của Bắc Việt Nam, nhưng hai báo động giả đã làm tăng mức độ thất vọng trong số các cố vấn ở Việt Nam. Vào đầu tháng 3, một cố vấn dân sự tỉnh Hoa Kỳ đã tóm tắt tính mơ hồ về ý định của Bắc Việt: “Lại đến, lại đi, sắp đến, rồi không đến—tháng này thực sự là một vòng quay đu của hành động đang chờ đợi mà không hề thành hiện thực. Thật khó để thực sự xác định được ý định hiện giờ của kẻ thù.” Tướng Abrams, mặc dù cũng thất vọng, nhưng vẫn tin rằng Bắc Việt đang chuẩn bị một cuộc tấn công lớn, nhưng ông không chắc chắn về thời điểm thực tế của cuộc tấn công.
Trong khi các đồng minh tranh luận về khả năng xảy ra một cuộc tấn công lớn của Cộng sản, Bắc Việt đã hoàn tất các công tác chuẩn bị cho cuộc xâm lược miền Nam. Vào ngày 30 tháng 3, Bắc Việt bắt đầu cuộc tấn công bằng một trận pháo kích ồ ạt vào các vị trí của Sư đoàn 3 của QĐVNCH dọc theo DMZ (xem bản đồ 9).
Ngay sau những loạt pháo kích này là cuộc tấn công trên bộ qua DMZ và từ phía tây dọc theo Đường 9. Các cuộc tấn công bất ngờ của địch do Sư đoàn 304 và 308 của QĐNDVN, ba trung đoàn bộ binh riêng biệt của Mặt trận B-5, hai trung đoàn xe tăng và ít nhất một tiểu đoàn công binh, tổng cộng ước tính là 30.000 quân Cộng sản, đã chạm trán Sư đoàn 3 của QĐVNCH đang tái bố trí lực lượng và chưa sẵn sàng chiến đấu. Ngoài ra, Quân đội miền Nam đã bị áp đảo về hỏa lực và thường bị áp đảo về quân số tại trận địa với tỷ lệ ba chọi một. Sư đoàn 3, một đơn vị mới không được chuẩn bị cho các cuộc tấn công quy ước bằng xe tăng-bộ binh quy mô lớn được hỗ trợ bởi các cuộc pháo kích nặng nề, đã choáng váng trước cường độ tấn công dữ dội của QĐNDVN.
Tướng Lãm, tướng chỉ huy Quân đoàn I (người trước đây đã chỉ huy lực lượng miền Nam tiến vào Lào trong Chiến dịch Lam Sơn 719), cũng không sẵn sàng cho một cuộc tấn công của Cộng sản có quy mô như vậy. Lãm, không thấy lý do gì để báo động trước các cảnh báo từ Sài Gòn về một cuộc tấn công sắp xảy ra, do đó đã không có sự chuẩn bị đặc biệt nào cho quân đội của mình. Chỉ huy quân đoàn dự kiến bất kỳ cuộc tấn công nào của địch ở Quân khu I sẽ đến từ phía tây từ Lào ra thay vì vượt qua Khu Phi Quân sự tương đối bằng phẳng và rộng mở, vì vậy ông đã hoàn toàn bất ngờ khi QĐNDVN tràn qua Khu Phi Quân sự với lực lượng hùng hậu.
Sau khi tập kích bất ngờ, địch đã chỉ đạo hai cuộc tấn công vào Trung đoàn 56 của Sư đoàn 3 gần Căn cứ Yểm trợ Hỏa lực Fuller và A4. Hai cuộc tấn công nữa nhắm vào các vị trí của Trung đoàn 57 tại Căn cứ Yểm trợ Hỏa lực A2 và A1. Lực lượng Quân đội Bắc Việt bổ sung tấn công Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến 147 tại Núi Ba Hổ, Căn cứ Yểm trợ Hỏa lực Sarge và Holcomb. Các cuộc tấn công của địch tiếp tục cả ngày và tăng cường cường độ khi thời gian trôi qua. Do mây, sương mù và mưa phùn, khả năng và hiệu quả của hỗ trợ không quân chiến thuật của đồng minh đã giảm đáng kể; thiếu sự hỗ trợ này, lực lượng miền Nam đã rút lui, thường là trong tình trạng hỗn loạn. Núi Ba Hổ đã được sơ tán vào cuối buổi tối ngày 31 tháng 3 và CCYTHL Sarge bị tràn ngập vào sáng sớm ngày 1 tháng 4. Trong khi đó, áp lực nặng nề của Quân đội Bắc Việt đã buộc các thành phần của Trung đoàn 56 gần CCYTHL Fuller và các đơn vị của Trung đoàn 2 gần Khe Gió phải rút lui. Đến tối ngày 1 tháng 4, tất cả các vị trí của QĐVNCH dọc theo chu vi phía bắc đã rút lui hoặc được sơ tán: Trung đoàn 56 rút về Trại Carroll và bị tấn công; Trung đoàn 57 rút lui về phía bắc Đông Hà; và sư đoàn 2 rút về Cam Lộ. Các đơn vị Thủy quân Lục chiến Việt Nam vẫn ở Mai Lộc và CCYTHL Pedro, thể hiện khả năng đương đầu tốt trước tấn công của kẻ thù.
Vào lúc 18 giờ ngày 1 tháng 4, Chuẩn tướng Vũ Văn Giai, Tư lệnh Sư đoàn 3 QĐVNCH, đã ra lệnh rút toàn bộ lực lượng sư đoàn về phía bắc Đồng Hà, chỉ đạo lực lượng của mình thiết lập một tuyến phòng thủ ở phía nam sông Cửa Việt và Miêu Giang. Giai đã ra lệnh cho các đơn vị Địa phương quân và Dân quân ở Đông Hà giữ một tuyến dọc theo bờ nam của sông Cửa Việt từ bờ biển đến khoảng năm km vào đất liền. Trung đoàn 57 sẽ thiết lập tuyến của mình từ cuối tuyến Địa phương quân/Dân quân đến Đông Hà. Trung đoàn 2 sẽ chiếm giữ một tuyến từ Đông Hà về phía tây đến Cam Lộ, nơi sẽ liên kết với Trung đoàn 56, được lệnh giữ Trại Carroll. Tuyến này sẽ được kéo dài về phía nam để hợp nhất với các vị trí của Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến 147 xung quanh Mai Lộc. Đội xe tăng 20, được vội vã đưa vào chiến trường khi vừa mới hoàn thành khóa huấn luyện đơn vị tại Trại Evans, được giao trách nhiệm trấn giữ chính Đông Hà.
Đến ngày 2 tháng 4, tuyến phòng thủ mới của Tướng Giai đã được thiết lập và ở trong tình trạng khá tốt. Tuy nhiên, sau đó vào ngày hôm đó, địch đã đồng loạt tấn công vào Đông Hà và Trại Carroll. Trung đoàn 57, mặc dù ban đầu đã thành công trong việc đẩy lùi cuộc tấn công của Cộng sản, đã chứng kiến một dòng người tị nạn hoảng loạn liên tục chạy xuống Đường 1 vào Đông Hà. Sự hoảng loạn đã lây lan sang lực lượng chiến đấu và quân đội cuối cùng đã mất hết nhuệ khí, tan vỡ và bỏ chạy, hòa mình vào dòng người di cư hỗn loạn về phía nam. QĐNDVN cũng tấn công dữ dội Trại Carroll bằng pháo binh và các cuộc tấn công theo kiểu biển người được hỗ trợ bởi xe tăng T-54. Cố vấn Hoa Kỳ, Trung tá William Camper sau đó đã nói rằng theo ông miền Nam có thể cầm cự thêm ít nhất một tuần nữa, nhưng Đại tá Phạm Văn Định, chỉ huy Trung đoàn 56 tại Trại Carroll, đã thông báo cho Camper rằng một “nhóm” sĩ quan của chính ông đã buộc ông phải đàm phán đầu hàng. Bất chấp sự phản đối của Camper, Định đã đầu hàng toàn bộ trung đoàn của mình: 1.500 binh sĩ QĐVNCH và 22 khẩu pháo, bao gồm một khẩu đội 175 mm và nhiều khẩu quad-50 và twin-40, là tập hợp vũ khí hạng nặng lớn nhất tại Quân khu I. Camper và trợ lý của ông, Thiếu tá Joseph Brown, đã được trực thăng Hoa Kỳ giải cứu. Ngày 3 tháng 4, Đài phát thanh Hà Nội đã đưa tin lời kêu gọi của Đại tá Định kêu gọi tất cả binh lính QĐVNCH hạ vũ khí và đầu hàng Quân đội Bắc Việt.
Với việc mất Carroll và pháo binh, các lực lượng Thủy quân Lục chiến Việt Nam tại Mai Lộc đã buộc phải rút lui về phía Thành phố Quảng Trị. Trong vài ngày tiếp theo, các cuộc tấn công không ngừng nghỉ của Quân đội Bắc Việt đã buộc quân phòng thủ miền Nam phải co cụm vào một chu vi chỉ có đường kính 11 km, bao gồm Đông Hà và Thành phố Quảng Trị. Đến ngày 5 tháng 4, đã có một thời gian tạm lắng giao tranh khi Quân đội Bắc Việt tái bố trí pháo binh và tiếp tế đạn dược.
Tại Washington, Nhà Trắng đã nhận được những tín hiệu trái chiều về mức độ nghiêm trọng của cuộc tấn công mới của Cộng sản. Vào ngày 31 tháng 3, Bộ trưởng Quốc phòng Laird đã tư vấn cho tổng thống và cố vấn an ninh quốc gia của ông rằng cuộc giao tranh ở Quân Khu I là một cuộc tấn công lớn, nhưng Kissinger nhớ lại rằng vì một số lý do nào đó, Lầu Năm Góc vẫn tiếp tục đưa ra những lời giải thích “trấn an”. Sau đó, ông suy đoán rằng thành viên dân sự trong Bộ Quốc phòng đã che giấu quy mô của cuộc tấn công của QĐNDVN nhằm ngăn Nixon thực hiện lời đe dọa thường được nêu ra là phản ứng mạnh mẽ trước bất kỳ cuộc tấn công nào của Bắc Việt. Laird, luôn là một chính trị gia, rõ ràng không muốn tổng thống phản ứng và do đó phải hứng chịu sự phẫn nộ của công chúng Mỹ trong năm bầu cử.
Tuy nhiên, vào ngày 2 tháng 4, mọi sự mơ hồ về cuộc tấn công đã được xóa bỏ khi Đại sứ Ellsworth Bunker gửi điện tín cho Kissinger và Nixon rằng “lực lượng QĐVNCH đang bên bờ vực sụp đổ ở Quân đoàn I”. Giờ đây, Nhà Trắng đã nhận rõ cuộc tấn công ở Quân khu I là một phần của cuộc tấn công toàn diện của Cộng sản và miền Nam, đang choáng váng vì cường độ của các cuộc tấn công, đang có nguy cơ sụp đổ. Nếu Bắc Việt thành công trong việc gây ra một thất bại lớn cho miền Nam, chính sách Việt Nam hóa ba năm của Nixon sẽ bị vạch trần là gian lận và cuộc chạy đua tái tranh cử của ông vào tháng 11 sẽ gặp nguy cơ nghiêm trọng. Hơn nữa, Nixon đã lên lịch gặp thủ tướng Liên Xô Leonid Brezhnev tại Nga, và ông không thể đến Moscow sau một thất bại quân sự chủ yếu do vũ khí Liên Xô cung cấp. Nixon đang ở trong một vị trí khó khăn. Nếu ông phản ứng mạnh mẽ với cuộc xâm lược của Bắc Việt, điều đó có thể khiến Liên Xô hủy bỏ hội nghị thượng đỉnh và phá hủy hy vọng hòa hoãn của mình. Một phản ứng mạnh mẽ cũng có thể khiến Trung Quốc tức giận, những người mà Nixon cũng đang cố gắng tán tỉnh. Tuy nhiên, nếu Nixon không dùng đến biện pháp ném bom, vũ khí duy nhất còn lại của ông ta khi hầu hết quân đội chiến đấu của Hoa Kỳ đã rời khỏi miền Nam, thì Bắc Việt rất có thể sẽ tràn ngập quân đội Sài Gòn, gây ra thất bại quân sự cho QĐVNCH, và làm tổn hại đến vị thế chiến lược của Hoa Kỳ trên toàn thế giới. Trong nước, đó là năm bầu cử, và các phân khúc đối lập của xã hội Hoa Kỳ sẽ sẵn sàng lên án Nixon vì đã không hành động để ngăn chặn sự sụp đổ của miền Nam hoặc vì đã phản ứng quá mức giống như một cuộc leo thang chiến tranh. Bất chấp những nguy hiểm liên quan, Nixon đã đi đến kết luận rằng “Thất bại… đơn giản không phải là một lựa chọn.” Ông và Kissinger đã nhất trí rằng cần phải nhanh chóng làm điều gì đó để hỗ trợ cho người miền Nam đang suy yếu, và họ xác định rằng cách tốt nhất để làm điều đó là “mang chiến tranh đến Bắc Việt Nam.” Trong tình hình này, ném bom là câu trả lời duy nhất để ngăn chặn sự sụp đổ của miền Nam.
Vào cuối ngày 4 tháng 4, Nixon, dỡ bỏ những hạn chế trước đó đã tồn tại từ năm 1968, đã ra lệnh không kích vào Bắc Việt cho đến tận vĩ tuyến thứ 18. Các viên chức dân sự trong Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng đã khuyên tổng thống không nên tiến hành ném bom trở lại khẳng định rằng nếu Việt Nam hóa thực sự được thử nghiệm thành công, thì người miền Nam phải chống lại cuộc xâm lược này mà không cần thêm viện trợ. Nixon chưa sẵn sàng chấp nhận rủi ro mà hành động này gây ra. Theo tướng Không quân Hoa Kỳ John W. Vogt, người lúc đó đang ở Washington để họp giao ban trước khi bay đến Sài Gòn nắm quyền chỉ huy Không lực số 7, Nixon đã nói với ông ta, “Tôi muốn ông xuống đó và sử dụng bất kỳ lực lượng không quân nào ông cần để xoay chuyển tình thế… hãy dừng cuộc xâm lược này lại.”
Vào ngày 6 tháng 4, như một phần của “Chiến dịch Freedom Train”, máy bay ném bom chiến đấu của Mỹ đã tấn công các mục tiêu của Cộng sản cách DMZ 60 dặm về phía bắc. Vào ngày 10 tháng 4, 12 chiếc B-52 đã tấn công các kho tiếp tế gần cảng Vinh, cách DMZ khoảng 150 dặm về phía bắc. Đây là lần đầu tiên chính quyền Nixon sử dụng B-52 ở Bắc Việt Nam. Đến giữa tháng, B-52 đã tấn công các mục tiêu cách Hà Nội và Hải Phòng vài dặm.
Với việc Nixon khởi xướng các hoạt động không quân tăng cường chống lại Bắc Việt, các phi đội máy bay bổ sung và nhiều tàu chiến của Mỹ đã được báo động và bắt đầu di chuyển về phía Đông Nam Á để tuân thủ lệnh của tổng thống nhằm ngăn chặn cuộc xâm lược của QĐNDVN. Trong vòng 60 ngày, lực lượng Hoa Kỳ có thể sử dụng ở Việt Nam sẽ tăng thêm 100 chiếc B-52, hàng trăm máy bay chiến đấu chiến thuật, 4 tàu sân bay bổ sung và 32 tàu chiến nữa.
Khi chính quyền Nixon phản ứng với cuộc tấn công ban đầu của Bắc Việt và QĐNDVN tấn công Sư đoàn 3 của QĐVNCH trong và xung quanh Quảng Trị, các lực lượng bổ sung của QĐNDVN đã tấn công vào Quân khu III. Các trung đoàn 24 và 271 của BV đã tấn công các đơn vị của Sư đoàn 25 của QĐVNCH tại một số căn cứ hỏa lực gần biên giới Campuchia ở phía bắc tỉnh Tây Ninh. Cũng như ở Quảng Trị, QĐNDVN đã tấn công bằng bộ binh và xe tăng (bao gồm cả xe tăng M-41 do Mỹ sản xuất trước đó đã tịch thu được từ lực lượng QĐVNCH). Mặc dù quân đội miền Nam đã bất ngờ trước cường độ của các trận chiến và việc sử dụng xe tăng, nhưng bản thân các cuộc tấn công đã trùng khớp với kỳ vọng trước đó rằng bất kỳ động thái đáng kể nào của QĐNDVN trong khu vực này sẽ nhắm vào Tây Ninh. Tuy nhiên, các cuộc tấn công này chứng tỏ chỉ là đòn nghi binh, được thiết kế để che giấu sự di chuyển của ba sư đoàn quân Bắc Việt (tổng cộng hơn 35.000 người, tính cả pháo binh và các lực lượng hỗ trợ khác) đến các vị trí xuất kích cuối cùng để chuẩn bị cho mũi tấn công chính xuống Đường 13 qua Lộc Ninh và An Lộc hướng về Sài Gòn. Kế hoạch của Quân đội Bắc Việt yêu cầu Sư đoàn 5 VC bắt đầu chiến dịch bằng cách chiếm Lộc Ninh, thị trấn cực bắc của Tỉnh Bình Long. Sau khi chiếm được Lộc Ninh, Sư đoàn 9 VC, được coi là một trong những sư đoàn tinh nhuệ Bắc Việt, sẽ chiếm An Lộc. Đồng thời, Sư đoàn 7 Bắc Việt sẽ cắt Đường 13 ở phía nam An Lộc để ngăn chặn mọi nỗ lực tiếp tế hoặc tăng viện cho thành phố.
Vào lúc 06 giờ 50 sáng ngày 5 tháng 4, Sư đoàn 5 VC đã vượt qua biên giới Campuchia và tấn công Lộc Ninh bằng bộ binh và xe tăng được hỏa lực pháo binh hạng nặng yễm trợ (xem bản đồ 10). Chỉ có việc sử dụng hiệu quả các cuộc không kích chiến thuật mới ngăn được lực lượng bảo vệ thuộc Trung đoàn 9 QĐVNCH, Sư đoàn 5 QĐVNCH không bị tràn ngập hoàn toàn. Vào sáng ngày 6 tháng 4, quân Bắc Việt tấn công một lần nữa. Các cuộc không kích liên tiếp của máy bay ném bom chiến đấu và sự hỗ trợ chặt chẽ của các trực thăng chiến đấu AC-130 Spectre đã phá vỡ cuộc tấn công đầu tiên và hai cuộc tấn công tiếp theo. Tuy nhiên, lực lượng bộ đội Bắc Việt áp đảo, và những chiến sĩ bảo vệ cuối cùng đã bị tràn ngập. Chỉ có 100 binh sĩ miền Nam trốn thoát được đến An Lộc, và 6 trong 7 cố vấn Hoa Kỳ đã bị giết hoặc bị bắt.
Sau khi tràn ngập hai căn cứ hỏa lực của QĐVNCH do Lực lượng đặc nhiệm 52 điều khiển ở phía nam Lộc Ninh, gần ngã ba Đường 13 và 17, Quân đội Bắc Việt đã tiến về An Lộc. Khi các cuộc tấn công vào Lộc Ninh và Lực lượng Đặc nhiệm 52 diễn ra, Thiếu tướng James F. Hollingsworth, chỉ huy Bộ Tư lệnh Hỗ trợ Vùng 3, đã đi đến kết luận rằng An Lộc, chứ không phải Tây Ninh, là mục tiêu chính của cuộc tấn công chính của Bắc Việt. Ông và người đồng cấp của mình, Trung tướng Nguyễn Văn Minh, chỉ huy Quân đoàn III, đã thuyết phục Tổng thống Thiệu rằng nếu An Lộc thất thủ, lực lượng Bắc Việt sẽ có rất ít khoảng cách giữa họ và Sài Gòn. Theo đó, quyết định được đưa ra là giữ An Lộc bằng mọi giá; Thiệu đã thông báo qua điện đài cho các sĩ quan cấp cao của QĐVNCH tại An Lộc phải “tử thủ”. thành phố.
Khi lực lượng miền Nam ở An Lộc chuẩn bị cho cuộc tấn công sắp tới, lực lượng phòng vệ xung quanh Quảng Trị đã cố gắng giữ vững phòng tuyến trước áp lực ngày càng lớn của kẻ thù. Việc mất Trại Carroll và Mai Lộc ban đầu đã gây tổn thất nặng nề cho tinh thần chiến đấu của miền Nam, nhưng tinh thần đã được vực dậy sau mỗi lần phòng thủ thành công trước các cuộc tấn công liên tiếp của QĐNDVN. Ngoài ra, quân tiếp viện đã đến Quảng Trị với Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến 369 và các nhóm Biệt động 1, 4 và 5. Với những lực lượng mới này, Tướng Lãm bắt đầu cân nhắc một cuộc phản công. Tuy nhiên, Tướng Giai không đồng ý và thúc giục mạnh mẽ.nên tăng cường quân số mới cho tuyến phòng thủ. Vào thời điểm này, phạm vi kiểm soát của Giai bao gồm 9 lữ đoàn (2 trung đoàn của riêng ông, 2 lữ đoàn thủy quân lục chiến, 4 nhóm biệt động và 1 lữ đoàn thiết giáp, cộng với tất cả các lực lượng địa phương quân), tổng cộng là 23 tiểu đoàn. Giai, người từng là đại tá chỉ huy một trung đoàn chỉ trong năm trước, giờ đây đã quá tải một cách vô vọng với quá nhiều đơn vị có nhiệm vụ phải kiểm soát. Tướng Lãm có thể khắc phục tình hình bằng cách cắt đặt Quân đoàn I kiểm soát các lực lượng thủy quân lục chiến dưới quyền chỉ huy Sư đoàn TQLC, và giao cho Sư đoàn TQLC và Bộ Tư lệnh Biệt động các trách nhiệm riêng biệt cho mỗi khu vực trên tuyến phòng thủ. Tuy nhiên, Lãm không làm bất kỳ điều nào như vậy và Giai vẫn phải gánh vác toàn bộ nhiệm vụ nặng nề phòng thủ khu vực Quảng Trị, một tình huống góp phần gây ra thảm họa sắp tới.
Đến ngày 10 tháng 4, những thành công hạn chế của QĐVNCH đã thuyết phục Lãm, bất chấp sự phản đối liên tục của Tướng Giai, rằng mình đã đúng về tính khả thi của việc tiến hành một cuộc phản công. Ông muốn mở một cuộc tấn công qua Sông Cửa Việt để chiếm lại toàn bộ lãnh thổ đã mất giữa con sông và DMZ. Sau nhiều cuộc thảo luận, ý tưởng này đã bị loại bỏ vì nó sẽ thu hút quá nhiều quân ra khỏi tuyến phòng thủ. Sau đó, Lãm quyết định rằng cuộc phản công nên tập trung vào việc tái chiếm phần phía tây của tuyến phòng thủ ban đầu, trong quá trình này, chiếm lại Cam Lộ, Trại Carroll và Mai Lộc. Cuộc phản công, được gọi là Quang Trung 729, dự kiến bắt đầu vào ngày 14 tháng 4.
Khi lực lượng của Lãm chuẩn bị cho cuộc phản công ở Quân đoàn I, Quân Bắc Việt đã tấn công An Lộc bằng mọi thứ họ có. Vào ngày 7 tháng 4, các đơn vị của Sư đoàn 9 VC đã chiếm sân bay Quản Lợi, chỉ cách An Lộc ba km về phía đông nam. Động thái này, cùng với việc Sư đoàn 7 Bắc Việt đóng cửa Đường 13 ở phía nam thành phố, có nghĩa là An Lộc đã bị bao vây và cắt đứt từ bên ngoài; một cuộc vây hãm kéo dài bắt đầu. Tướng Hollingsworth thúc giục Tướng Minh ra lệnh cho Lữ đoàn 1 Không vận tấn công về phía bắc để bảo vệ Đường 13, nhưng khi các thành viên của lữ đoàn được đưa vào dọc theo xa lộ, họ đã bị tấn công dữ dội từ quân Bắc Việt cố thủ. Không thể tiến triển đáng kể trên đường, họ sau đó được trực thăng vận chuyển bằng đường hàng không đến các bãi đáp ở phía đông An Lộc, nơi họ cung cấp lực lượng tăng viện rất cần thiết cho binh sĩ bảo vệ bên trong thành phố.
Sau khi cắt đứt quân miền Nam ở An Lộc khỏi nguồn tiếp viện và tiếp tế trên bộ, QĐNDVN đã phát động một cuộc tấn công toàn diện. Trong sáng sớm ngày 13 tháng 4, quân Cộng sản bắt đầu trận pháo kích dữ dội. Tổng cộng 7.000 quả đạn pháo và hỏa tiễn đã rơi xuống thành phố trong 15 giờ tiếp theo, với tốc độ một viên đạn sau mỗi tám giây. Ngay sau bình minh, các pháo thủ BV chuyển hướng bắn và quân Cộng sản đã phát động một cuộc tấn công kết hợp giữa xe tăng và bộ binh từ phía đông bắc. Xe tăng T-54 và PT-76 do Liên Xô sản xuất di chuyển xuống phố chính bắc-nam hướng về sở chỉ huy của Sư đoàn 5 QĐVNCH ở giữa thị trấn. Lực lượng miền Nam hoảng loạn vì hầu hết chưa từng đối đầu với xe tăng trong chiến đấu, đã rút lui trước cuộc tấn công của bộ đội Bắc Việt. Tình hình đã được ổn định phần nào bởi hai yếu tố. Thứ nhất, quân Bắc Việt cực kỳ vụng về trong việc phối hợp thiết giáp và bộ binh trong cuộc tấn công. Xe tăng tấn công mà không có sự hỗ trợ của bộ binh, vẫn tiếp tục tiến lên dọc theo các con đường khi việc di chuyển qua đồng ruộng sẽ an toàn hơn, và, khi cần tốc độ và giành thế chủ động, lại tiến triển chậm chạp và thiếu quyết đoán. Việc không áp dụng các nguyên tắc cơ bản nhất của chiến thuật phối hợp vũ khí khiến xe tăng Bắc Việt không được bảo vệ trước lực lượng phòng thủ của QĐVNCH, họ nhận ra chúng là mồi ngon dễ xơi cho vũ khí chống tăng hạng nhẹ M-72 (LAW) của mình sau khi họ vượt qua được cú sốc ban đầu khi phải đối mặt với đoàn xe tăng tấn công của kẻ thù.
Yếu tố quan trọng hơn trong việc ngăn chặn các cuộc tấn công ban đầu và tiếp theo vào An Lộc là sự hỗ trợ trên không chính xác và hiệu quả, tấn công kẻ thù ngay trước các vị trí của QĐVNCH và ngăn chặn quân Bắc Việt phát triển các thắng lợi ban đầu ở phía bắc thành phố. Trong khi Không quân Hoa Kỳ, Hải quân và máy bay tiêm kich-ném bom của Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ thả bom xuống các lực lượng Bắc Việt đang tập trung xung quanh thành phố để tấn công, lực lượng QĐVNCH, được hỗ trợ bởi trực thăng tấn công AH-1G Cobra của Lục quân Hoa Kỳ và các máy bay chiến đấu AC-119K Stinger và AC-130 Spectre của Không quân, đã có thể phòng thủ trước số lượng bộ binh và xe tăng Bắc Việt đã giảm đi sau các cuộc không kích. Mô hình hỗ trợ trên không này, tiếp tục trong ba tháng tiếp theo, đã nhiều lần chứng minh là yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa chiến thắng và thảm bại đối với lực lượng bảo vệ miền Nam.
Trong hai ngày tiếp theo, trận chiến diễn ra ác liệt ở An Lộc, được đánh dấu bằng cuộc giao tranh dữ dội từng đường phố, ngôi nhà và pháo binh địch liên tục bắn phá các vị trí phòng thủ của miền Nam. Trong khi trận chiến vẫn tiếp diễn bên trong thành phố, Tướng Hollingsworth chỉ đạo các cuộc không kích B-52 vào các khu vực tập kết của quân đội Bắc Việt ngay bên ngoài thành phố. Mỗi cuộc không kích B-52, có mật danh là Arc Light (Vòng cung Ánh sáng), bao gồm ba máy bay, mỗi máy bay mang theo 108 quả bom thông thường nặng 500 cân (MK-82). Một cuộc không kích như vậy có thể chụp xuống toàn bộ một tiểu đoàn ở ngoài trời trước khi tiếp cận phía tây bắc của thành phố, giết chết khoảng một trăm tên địch, phá hủy ba xe tăng và phá vỡ cuộc tấn công của quân đội Bắc Việt vào khu vực đó của An Lộc. Những chiến sĩ bảo vệ tiếp tục dập quân Bắc Việt bằng không quân chiến thuật và các cuộc không kích B-52. Chuẩn tướng John R. McGiffert, phó tướng chỉ huy, Bộ tư lệnh Hỗ trợ Quân khu 3, đã nói về tầm quan trọng của các cuộc không kích sau trận chiến, “Tôi thực sự tin rằng nếu không có những cuộc không kích này, thành phố đã thất thủ, vì chắc chắn bộ binh địch sẽ tiến vào cùng với xe tăng.” Trong hai tuần đầu tiên của trận An Lộc, hơn 2.500 cuộc không kích đã được thực hiện trong và xung quanh thành phố để hỗ trợ cho lực lượng bảo vệ miền Nam. Chìa khóa thành công của các nhiệm vụ này là các cố vấn Hoa Kỳ tại mặt trận An Lộc đã có thể phối hợp với các kiểm soát viên không quân tiền phương để tận dụng tối đa các cuộc không kích.
Mặc dù sức mạnh tàn phá của không quân Hoa Kỳ rất nặng nề, QĐNDVN vẫn tiếp tục tấn công An Lộc trong ba ngày tiếp theo. Trận chiến diễn ra ở cự ly gần, với bộ đội Bắc Việt gần như đã chiếm được sở chỉ huy của Sư đoàn 5 QĐVNCH hai lần, nhưng QĐVNCH vẫn giữ vững. Tướng Hollingsworth báo cáo với Tướng Abrams vào ngày 16 tháng 4 rằng “hôm nay đã diễn ra một trận đánh lớn tại An Lộc, có lẽ là trận lớn nhất của chiến dịch này. Kẻ thù đã tấn công chúng tôi dữ dội suốt cả ngày với tất cả những gì chúng có thể tập hợp được—và chúng tôi đã phản công lại chúng. Các lực lượng tại An Lộc nhận ra rằng họ phải chiến đấu và họ đã chiến đấu rất tốt.”
Tổng thống Thiệu, thấy rằng mình phải giữ An Lộc để ngăn chặn một cuộc tấn công trực tiếp vào Sài Gòn, đã ra lệnh cho Sư đoàn 21 QĐVNCH di chuyển từ căn cứ của mình ở Đồng bằng sông Cửu Long để tăng cường lực lượng cho Quân đoàn III. Tướng Minh ngay lập tức ra lệnh Sư đoàn 21 tấn công về phía bắc từ Lai Khê để mở Đường 13 đến An Lộc. Sư đoàn di chuyển đến Lai Khê và phát động cuộc tấn công, nhưng nhanh chóng gặp phải sức kháng cự mạnh mẽ từ Sư đoàn 7 BV cố thủ trong giao thông hào. Quân Bắc Việt sẽ cầm chân lực lượng miền Nam trong hai tháng tiếp theo, chặn mọi cuộc giải cứu An Lộc bằng đường bộ.
Quay trở lại thành phố, có một khoảng lặng tạm thời trong trận chiến. Kế hoạch ban đầu của kẻ thù nhằm chiếm An Lộc đã bị phá vỡ. Cuộc tấn công chính, do Sư đoàn 9 VC tiến hành, được hỗ trợ bởi tiểu đoàn 3 và 5 của Trung đoàn xe tăng 203, được cho là sẽ chiếm đóng thành phố vào ngày 20 tháng 4. Tuy nhiên, cuộc tấn công đã không thành công—chủ yếu là do bị liên tục dập bởi các B-52, máy bay tiêm kích-ném bom, pháo hạm AC-130 Spectre và trực thăng tấn công.
Mặc dù đã ngăn chặn được nỗ lực đầu tiên của Quân đội Bắc Việt nhằm chiếm thành phố, nhưng lực lượng phòng thủ của miền Nam đã gặp rắc rối. Đại tá William Miller, cố vấn cấp cao của Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, chỉ huy Sư đoàn 5 của QĐVNCH bên trong An Lộc, đã báo cáo với Tướng Hollingsworth vào ngày 17 tháng 4 rằng thành phố vẫn tiếp tục hứng chịu các trận pháo kích cực kỳ dữ dội và ông nghĩ rằng lực lượng Bắc Việt đang chuẩn bị cho một cuộc tấn công toàn diện khác. Ông rất bi quan về khả năng tiếp tục chiến đấu của QĐVNCH: “Sư đoàn đã mệt mỏi và kiệt sức; nguồn tiếp tế tối thiểu, thương vong tiếp tục tăng, nguồn cung cấp y tế thấp; cứu thương là vấn đề lớn, chôn cất hàng loạt quân nhân và thường dân, tinh thần xuống rất thấp. Mặc dù chịu tổn thất nặng nề từ các cuộc không kích của Hoa Kỳ, kẻ thù vẫn tiếp tục kiên trì.”
Vào ngày 19 tháng 4, Quân Bắc Việt đã phát động cuộc tấn công toàn diện thứ hai vào thành phố với năm trung đoàn. Trận chiến diễn ra trong ba ngày dưới cơn mưa pháo kích liên tục. Cuộc giao tranh diễn ra dữ dội, nhưng sự hỗ trợ trên không chiến thuật và các B-52 đã cho phép phe phòng vệ ngăn chặn được quân Bắc Việt tấn công, mặc dù lực lượng miền Nam lúc này chỉ giữ được một khu vực rất nhỏ ở phía nam thành phố. Những binh sĩ bảo vệ miền Nam, hoàn toàn bị bao vây và dưới hỏa lực pháo binh liên tục, sống dưới lòng đất và chỉ mạo hiểm ra khỏi chiến hào và boongke của họ khi gặp nguy hiểm lớn. Một cố vấn đưa ra khả năng sống sót năm phút ngoài trời là năm mươi-năm mươi. Đến cuối tháng 4, quân phòng thủ miền Nam vẫn giữ được An Lộc, nhưng đó là một chỗ đứng mong manh nhất.
Trong khi lực lượng miền Nam ở Quảng Trị và An Lộc chiến đấu để sống còn trước các cuộc tấn công ban đầu của QĐNDVN trong quân khu của họ, Trung tướng Ngô Dzu, tư lệnh Quân đoàn II, và cố vấn của ông, John Paul Vann, đã chuẩn bị cho những gì họ chắc chắn sẽ là một cuộc tấn công sắp xảy ra của Cộng sản ở Quân Khu II. Họ đã theo dõi sự gia tăng quân địch ở vùng căn cứ 609 trong vùng biên giới ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào kể từ đầu năm và ngày càng lo ngại trước các báo cáo về xe tăng, pháo hạng nặng và vũ khí phòng không được nhìn thấy di chuyển qua khu vực. Theo đó, họ đã kêu gọi B-52 và các cuộc không kích chiến thuật đánh vào vùng căn cứ và bắt đầu tăng cường phòng thủ các thủ phủ của tỉnh Kontum và Pleiku. Đầu tháng 2, họ đã di chuyển Sư đoàn bộ binh 22 và Trung đoàn 47 từ căn cứ hậu phương của họ ở tỉnh Bình Định đến khu vực Tân Cảnh-Đăk Tô để gia nhập Trung đoàn 42, đã được triển khai ở đó một thời gian. Mục đích của động thái này là đặt phần lớn sư đoàn QĐVNCH vào giữa các khu vực tập kết của QĐNDVN và thị trấn Kontum.
Trong khi Dzu và Vann chuẩn bị để chống lại cuộc tấn công sắp xảy ra của BV, các lực lượng Cộng sản đã sẵn sàng để mở cuộc tấn công vào Quân khu II. Dưới quyền kiểm soát của Mặt trận B-3, các sư đoàn 2, 3 và 320 của QĐNDVN, tổng cộng hơn 20.000 quân và 400 xe tăng yểm trợ, đã chiếm giữ các vị trí xuất kích. Mặc dù các cuộc chạm trán với địch tăng lên vào tháng 2 và đầu tháng 3, quân Bắc Việt vẫn chưa mở một cuộc tấn công toàn diện. Vào ngày 30 tháng 3, quân Bắc Việt bắt đầu khai hỏa pháo hạng nặng vào các căn cứ yểm trợ hỏa lực dọc theo khu vực “Rocket Ridge” ở phía tây Kontum và phía tây nam Tân Cảnh, nhưng quân Bắc Việt vẫn chưa mở các cuộc tấn công lớn trên bộ hiện đang diễn ra ở Quân đoàn I và III. Các nhà phân tích tình báo của Quân đoàn II vào thời điểm đó cảm thấy rằng “Quân đội Bắc Việt đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc phối hợp, và có vẻ như họ đã không chuẩn bị mọi thứ để sẵn sàng ra trận.”(Xem Bản đồ 11).
Vào ngày 3 tháng 4, bộ đội đặc công tấn công sân bay tại Phụng Hoàng, gần Đăk Tô. Một bộ đội thuộc Trung đoàn Công binh 400 (Quân đội Bắc Việt) bị bắt làm tù binh trong cuộc tấn công này cho biết rằng chiến dịch Mặt trận B-3 tại Quân khu II, được gọi là “Trường Sơn Chuyển Mình”, sẽ được tiến hành trong hai giai đoạn. Trong Giai đoạn I, lực lượng Bắc Việt sẽ phá hủy các căn cứ quân sự của Quân đội Việt Nam Cộng hòa tại Tỉnh Kontum và mở đường cho địch tiếp tục di chuyển vào khu vực. Trong Giai đoạn II, quân Bắc Việt sẽ chiếm Bến Hét, Dak To, Tân Cảnh và cuối cùng là thị trấn Kontum. Kiểu tấn công bằng pháo binh và thăm dò trận địa sơ khởi tiếp tục trong một số ngày khi lực lượng Bắc Việt được điều động đến vị trí xuất kích cuối cùng của họ. Trong khi đó, Dzu và Vann duy trì áp lực lên quân BV bằng B-52 và các cuộc không kích chiến thuật.
Vào ngày 11 tháng 4, quân BV đã phát động cuộc tấn công ở Quân khu II bằng một cuộc tập kích dữ dội vào CCYTHL Charlie, Six, Zulu và Yankee, cũng như Trại Biệt kích Bến Hết ở phía tây Dak To. Cùng lúc đó, quân BV đã ra sức ngăn chặn tuyến tiếp tế quan trọng nối liền các thành phố Qui Nhơn và Pleiku. Rõ ràng, lực lượng Cộng sản đang cố gắng tách bờ biển khỏi Cao nguyên Trung phần để tước đoạt Sài Gòn khả năng tăng cường và tiếp tế cho lực lượng miền Nam ở Cao nguyên.
Vào ngày 14 tháng 4, QĐVNCH từ bỏ Căn cứ Charlie dưới áp lực nặng nề của kẻ thù, nhưng cuộc rút lui diễn ra có trật tự và quân miền Nam đã khiến quân Bắc Việt phải trả giá đắt cho chiến thắng của mình. Một kiểm soát viên không quân tiền phương của Hoa Kỳ đã báo cáo, “Những chiến sĩ Charlie bị áp đảo về số lượng, nhưng họ đã trụ vững. . . . Họ không hề vỡ trận. Họ đã khiến quân đỏ phải tiến chiếm từng boongke một. Họ chỉ không bỏ trận địa và tháo chạy. . . .”
Thật không may, thành tích đáng khen ngợi như vậy của quân miền Nam không phải lúc nào cũng duy trì trong cuộc giao tranh dữ dội sắp tới. Đến ngày 20 tháng 4, Tân Quan và Hoài An, các quận lỵ ở Tỉnh Bình Định, đã rơi vào tay quân Bắc Việt. Vào ngày 23 tháng 4, bộ đội Bắc Việt tấn công Tân Cảnh, sở chỉ huy của Sư đoàn 22 của QĐVNCH, với toàn bộ lực lượng xe tăng, bộ binh và pháo binh. Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng đã sử dụng lần đầu tiên trên chiến trường miền Nam tên lửa chống tăng dẫn đường bằng dây AT-3 “Sagger” do Liên Xô sản xuất. Đồng thời, họ cắt đứt Đường 14 tại ba địa điểm phía trên Đăk Tô và phía nam Tân Cảnh, trên thực tế đã cô lập Tân Cảnh và Đăk Tô khỏi thị trấn Kontum. Vào thời điểm này, theo Đại tá Phillip Kaplan, cố vấn cấp cao của Sư đoàn 22, Đại tá Lê Đức Đạt, sĩ quan chỉ huy, đã suy sụp dưới áp lực khủng khiếp. “Đạt thực sự suy sụp tinh thần”, Kaplan nhớ lại, báo cáo rằng Đạt đã nói, “Chúng ta sẽ thua, chúng ta sẽ bị tràn ngập, tất cả chúng ta sẽ bị giết chết hoặc bị bắt”. Biết rằng Đạt vẫn còn 1.200 binh lính bên trong căn cứ, Kaplan đã thúc giục ông cố thủ, nhưng Đạt đã bị tê liệt vì sợ hãi và binh lính của ông cũng vậy. Vào ngày 24 tháng 4, khi binh lính phòng vệ miền Nam đang sợ hãi chờ đợi trong các boongke của họ, quân Cộng sản đã bao vây Tân Cảnh và chiếm căn cứ mà không gặp khó khăn gì, tiến vào sở chỉ huy của Sư đoàn 22 hầu như không gặp phải sự kháng cự nào. Mặc dù có các máy bay tiêm kích-ném bom và trực thăng vũ trang Spectre luôn hiện diện, quân phòng ngự miền Nam đã sụp đổ; ngay sau đó kẻ thù đã chiếm được Dak To. Một cố vấn cấp cao của Quân đội Hoa Kỳ sau đó đã mô tả tình hình: “Tôi nghĩ lý do khiến họ tan vỡ và bỏ chạy ngay lúc đầu là do sự xuất hiện bất ngờ của xe tăng. Họ chưa bao giờ chiến đấu với xe tăng trước đây. Họ có rất nhiều thiết bị chống tăng, nhưng không ai có thể hình dung ra hàng loạt xe tăng T-54 và T-59 rầm rầm tiến tới. . . . Những đơn vị cho dù tốt nhất khi hoàn toàn bất ngờ có thể bỏ chạy và vỡ trận.”
Sư đoàn 22, không phải là một trong những đơn vị QĐVNCH tốt nhất, đã khuất phục trước tác động tâm lý của các cuộc tấn công dữ dội. Khi quân miền Nam chạy trốn khỏi khu vực Tân Cảnh-Đắk Tô trong nỗi kinh hoàng, họ đã bỏ lại 23 khẩu lựu pháo 155 mm, 10 xe tăng M-41 và 16.000 viên đạn cho kẻ thù. Sau những trận chiến này và cuộc rút lui sau đó, Sư đoàn 22 QĐVNCH không còn là một đơn vị đạt hiệu quả chiến đấu, và cuối cùng, chỉ huy sư đoàn đã bị cách chức. Điều duy nhất làm chậm cuộc tấn công của kẻ thù là sức mạnh không quân chiến thuật. Thương vong về phía các nhân viên cố vấn Mỹ của Sư đoàn 22 trong những trận chiến này là 4 chết, 1 bị thương và 10 mất tích trong chiến đấu; Kaplan và 8 cố vấn đồng đội của ông đã được trực thăng Hoa Kỳ sơ tán khi kẻ thù tràn ngập các vị trí của miền Nam tại Tân Cảnh. Trong khi quân BV chiếm Dak To, các lực lượng Cộng sản bổ sung đã cắt đứt Đường 1, đẩy hầu hết các đơn vị miền Nam đang bảo vệ con đường khỏi cứ điểm của họ và thực sự giành được quyền kiểm soát gần như toàn bộ Tỉnh Bình Định.
Khi Quân đội Bắc Việt tiếp tục các cuộc tấn công vào An Lộc và Quân đoàn II, họ tiếp tục gia tăng áp lực ở Quảng Trị. Tướng Lãm, tư lệnh Quân đoàn I, đã khởi xướng Chiến dịch Quang Trung 729 vào ngày 14 tháng 4. Thay vì là cuộc phản công mà Lãm hy vọng một cách phi thực tế, chiến dịch này chẳng khác gì là sự tiếp tục của cùng một hoạt động đã diễn ra. Các lực lượng miền Nam đã chạm trán với quân Bắc Việt và không muốn tiến lên. Đến cuối tuần, QĐVNCH đã tiến về phía trước cách tuyến xuất phát chưa đầy 500 mét. Như một cựu tướng lĩnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã viết sau chiến tranh, “QUANG TRUNG không diễn tiến như một trận tấn công, mà đúng hơn là một trận chiến tiêu hao tốn kém tại chỗ, trong đó các tiểu đoàn của miền Nam bị suy giảm dần về sức mạnh và hiệu quả do hỏa lực pháo binh chết người của đối phương.” Tinh thần binh lính miền Nam tại Quân đoàn I giảm mạnh.
Các vấn đề mới về chỉ huy và kiểm soát lại nổi lên. Bộ tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến và Bộ Tư lệnh Biệt động, cả hai đều tiếp tục bị loại khỏi cơ cấu chỉ huy và kiểm soát, tỏ ra thắc mắc về tài chỉ huy của Tướng Giai và thậm chí còn ban hành các chỉ thị và mệnh lệnh trái ngược với chỉ thị và mệnh lệnh của Giai, do đó làm phức tạp và gây nhầm lẫn cho chuỗi quân lệnh tại Quân đoàn I và ức chế việc tiến hành phòng thủ hiệu quả chống lại các cuộc tấn công của địch. Vào ngày 18 tháng 4, QĐNDVN bắt đầu một nỗ lực phối hợp để chiếm Quảng Trị bằng một cuộc tấn công ồ ạt vào khu vực phía tây của Sư đoàn 3. Giống như những gì đã xảy ra ở An Lộc, sự hỗ trợ trên không chiến thuật của Hoa Kỳ và B-52 đã phá vỡ thế tấn công và tạo cho QĐVNCH một cơ hội tốt để phản công. Tuy nhiên, quân đội miền Nam đã không biết nắm bắt thời cơ và vẫn nán lại trong boongke của họ.
Tuần sau, tuyến phòng thủ tại Đông Hà và dọc theo Sông Cửa Việt sụp đổ, không phải vì hành động của kẻ thù, mà là do tình trạng hoảng loạn của quân miền Nam. Chỉ huy Lữ đoàn Thiết giáp số 1 đã ra lệnh cho đội xe tăng số 20 của mình trên tuyến Cửa Việt chuyển hướng về phía nam dọc theo Đường 1 để dọn sạch các phần tử địch ở đó. Binh lính miền Nam án ngữ dọc theo tuyến, nhìn thấy xe tăng địch di chuyển về phía nam, đã hoảng loạn và tan rã hàng ngũ, chạy xuống đường cao tốc hướng về Quảng Trị. Tuyến phòng thủ Cửa Việt, vốn rất hiệu quả trong gần một tháng, đã bị bỏ rơi mà không có cuộc giao chiến nào. Chỉ huy Sư đoàn 3 biết về thảm họa quá muộn để làm bất cứ điều gì và cố gắng tái lập một tuyến phòng thủ ở phía tây Quảng Trị và phía bắc sông Thạch Hãn.
Trong những ngày tiếp theo, lực lượng phòng vệ, vốn đã bị lung lay, lại càng mất tinh thần hơn nữa khi bị pháo binh của địch liên tục tấn công. Vào ngày 27 tháng 4, bộ đội BV, cố gắng tận dụng thời tiết xấu, đã khởi xướng một cuộc công kích mới để chiếm thành phố Quảng Trị. Trong suốt cả ngày, hầu như tất cả các đơn vị của Sư đoàn 3 miền Nam đều chạm trán với quân địch. Ngày hôm sau, xe tăng địch tiến đến Cầu Quảng Trị, chỉ cách thành phố hai km về phía tây nam. Hoảng sợ trước xe tăng, quân phòng thủ miền Nam nhanh chóng mất kỷ luật và bỏ hàng ngũ, chạy về phía nam dọc theo Đường 1.
Trong khi đó, ở những nơi khác trên tuyến phòng thủ, pháo binh của quân địch và các cuộc tấn công liên tiếp trên bộ đã khiến Trung đoàn 57 không còn hiệu quả trong chiến đấu. Vào ngày 30 tháng 4, Tướng Giai nhận định rằng tuyến phòng thủ của mình không thể duy trì được và ra lệnh cho lực lượng chuẩn bị rút lui về phía nam sông Thạch Hãn, để lại Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến 147 là đơn vị duy nhất ở phía bắc sông. Sáng hôm sau, khi các đơn vị đang chuẩn bị di chuyển, Tướng Lãm đã gọi cho Tướng Giai và phản đối lệnh của sư đoàn trưởng, nói rằng Sư đoàn 3 và các đơn vị phụ thuộc phải ở lại nơi họ đang ở và giữ nguyên vị trí của mình bằng mọi giá. Sự thay đổi lệnh vào phút chót đã dẫn đến tình trạng hỗn loạn hoàn toàn.
Một số đơn vị đã di chuyển đến vị trí mới, một số khác đang trên đường đến, và ở một số đơn vị khác nữa, các chỉ huy đơn vị từ chối ban lệnh mới cho quân lính của họ. Do đó, hàng phòng thủ của Sư đoàn 3 đã hoàn toàn sụp đổ. Các đơn vị ở phía bắc con sông tràn về và “tiếp tục tiến về phía nam với sức mạnh không thể kiểm soát của một trận lũ trên một con đập bị vỡ.” Các đơn vị cơ giới đến Cầu Quảng Trị không thể vượt qua, vì cây cầu đã bị phá hủy trong tình trạng hỗn loạn. Họ bỏ lại xe cộ và thiết bị của mình và lội bộ qua sông. Ở bờ nam con sông, binh lính trong các đơn vị bộ binh đã thiết lập phòng tuyến dọc theo con sông, nhìn thấy ngày càng đông đúc binh sĩ miền Nam, xe tăng và xe cộ tiến về phía nam với tốc độ cao, đã bỏ vị trí của họ và gia nhập dòng người chạy trốn khỏi hàng ngũ. Khi xe tăng và xe cơ giới hết xăng, tài xế và đồng đội đã bỏ xe và tiếp tục đi bộ. Chỉ huy Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến 147, vẫn ở phía bắc con sông và là đơn vị duy nhất còn lại bảo vệ thành phố, đã tự nhận định tình hình là vô vọng và ra lệnh cho đơn vị của mình rút lui, để lại vị chỉ huy Sư đoàn 3 và bộ tham mưu của ông ta một mình trong thành phố không được bảo vệ. Sau đó, Tướng Giai và các sĩ quan tham mưu của ông lên ba xe bọc thép chở quân và cố gắng bắt kịp những người lính đang bỏ chạy. Các trực thăng của Hoa Kỳ đã đến để giải cứu các nhân viên cố vấn của sư đoàn và các nhân viên người Việt của họ. Không thể gia nhập quân đội của mình, nhóm của Giai đã quay trở lại sở chỉ huy cũ, nơi họ cũng được trực thăng Hoa Kỳ đón. Khi bộ đội tiến vào thành phố, Quảng Trị trở thành thủ phủ tỉnh đầu tiên rơi vào tay Cộng sản trong chiến tranh. Sau đó, Tướng Giai đã bị cách chức và bị đưa ra tòa án quân sự vì vi phạm nhiệm vụ và bỏ rơi sư đoàn của mình. Nhiều người Mỹ nghĩ rằng Tướng Lãm cũng nên bị đưa ra tòa án binh, nhưng Giai đã trở thành vật tế thần cho toàn bộ thảm họa ở Quân khu I.
Trong quá trình chiếm giữ thủ phủ, các tay súng miền Bắc đã nhắm vào đám đông binh sĩ và dân thường đổ xô xuống Đường 1, nơi được gọi là “Đại lộ Khủng bố”. Đến ngày 2 tháng 5, toàn bộ tỉnh Quảng Trị đã nằm trong tay QĐNDVN, và Cộng sản có thể chuyển sự chú ý của mình sang Tỉnh Thừa Thiên và kinh đô vương quốc cũ tại Huế. Abrams, không tin Kontum và Huế có thể trụ vững, đã gửi điện cho Washington rằng “giới lãnh đạo cấp cao [Nam Việt Nam] đã bắt đầu buông xuôi và trong một số trường hợp sụp đổ . . . mất đi ý chí, và không thể trông cậy để thực hiện các biện pháp cần thiết nhằm đứng vững và chiến đấu.”
BẾ TẮC Ở PARIS VÀ CHIẾN DỊCH LINEBREAKER
Cùng ngày hôm đó, ngày 2 tháng 5, Kissinger lại bí mật gặp Lê Đức Thọ ở Paris. Cuộc họp là một thảm họa. Kissinger cố gắng thuyết phục Bắc Việt đồng ý ngừng bắn và rút toàn quân, nhưng ông không đàm phán từ vị thế mạnh, vì Bắc Việt đang nắm giữ tất cả các lá bài. Miền Nam đang bị tấn công trên khắp cả nước: Quảng Trị đã thất thủ vào ngày hôm trước, Kontum bị bao vây, Lộc Ninh đã thất thủ, An Lộc bị bao vây, và Sài Gòn đang chuẩn bị đón nhận một cuộc công kích trực tiếp. Malcolm M. Brown của tờ New York Times đưa tin vào ngày 15 tháng 4 rằng trong 24 giờ trước đó đã chứng kiến 107 hoạt động do QĐNDVN phát động ở miền Nam, con số cao nhất kể từ cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân của Cộng sản năm 1968.
Bắc Việt đang giành thắng lợi trên mọi mặt trận, và sự sụp đổ của miền Nam có vẻ sắp xảy ra. Sau ba giờ chỉ trích về sự phản bội của Hoa Kỳ và chủ nghĩa anh hùng của Bắc Việt, các nhà đàm phán Bắc Việt yêu cầu Thiệu từ chức ngay lập tức và từ bỏ chính sách Việt Nam hóa. Theo Kissinger, Cộng sản đã ngừng đàm phán và đang ra điều kiện. Cuộc họp kết thúc mà không có thành tựu nào. Kissinger trước đó đã khuyên tổng thống hãy trì hoãn hành động đáp trả toàn diện đối với Bắc Việt cho đến khi mọi con đường ngoại giao đã cạn kiệt, nhưng khi trở về Washington, ông đã nói với tổng thống rằng, theo ý kiến của mình, Bắc Việt ở Paris tin rằng sự thất bại hoàn toàn của miền Nam chỉ còn cách vài ngày hoặc vài tuần nữa và tình hình đã vượt quá khả năng đảo ngược của Hoa Kỳ bằng cách trả đũa. Khi Nixon cử Kissinger đến Paris, tổng thống đã chỉ đạo ông ta nói với Bắc Việt ngừng cuộc xâm lược và “Hòa giải nếu không!” Bây giờ Kissinger đã trở lại, kể về sự kiêu ngạo và ngoan cố của các nhà đàm phán Bắc Việt; ông khuyên tổng thống rằng bất kỳ sự trả đũa nào của Hoa Kỳ “phải gây ra cú sốc khiến miền Bắc phải dừng tay và kêu gọi miền Nam tập hợp lại”. Tuy nhiên, ông cảnh báo Nixon rằng ông ta có thể phải hủy cuộc họp thượng đỉnh Hoa Kỳ-Liên Xô sắp tới.
Trong khi Kissinger ở Paris, nhà lãnh đạo Liên Xô, Leonid Brezhnev, đã gửi cho tổng thống một thông điệp cảnh báo về bất kỳ hành động nào của Hoa Kỳ tại Việt Nam có thể gây nguy hiểm cho cuộc họp đã lên kế hoạch của hai nhà lãnh đạo thế giới. Tướng Haig khuyên tổng thống nên cứng rắn. Ông nói với Nixon rằng, theo ý kiến của ông, “Người Nga muốn hòa hoãn hơn là cần Hà Nội. Cứ để họ hủy bỏ cuộc họp thượng đỉnh nếu họ không thích chính sách của chúng ta. Vấn đề chính là không để thua cuộc chiến; mọi vấn đề khác đều phụ thuộc”. Nhận được lời khuyên tương tự từ người bạn đáng tin cậy John Connally, cựu thống đốc Texas, Nixon đã gửi cho Brezhnev một thông điệp mạnh mẽ, giải thích rằng xét đến nguồn lực cung cấp của Liên Xô đã tạo điều kiện cho Bắc Việt tấn công, thì phản ứng mạnh mẽ của Hoa Kỳ là điều dễ hiểu. Trên thực tế, ông đang đánh cược với hội nghị thượng đỉnh và sự hòa hoãn. Nixon đã cân nhắc các lựa chọn của mình trong nhiều ngày, nhưng đến ngày 8 tháng 5, trong những gì Kissinger mô tả là “một trong những giờ phút tuyệt vời nhất trong nhiệm kỳ Tổng thống của Nixon”, ông đã quyết định phải làm gì. Đêm đó, ông đã công bố quyết định của mình với toàn quốc. Ông bắt đầu bằng tuyên bố rằng các hoạt động không quân chống lại Bắc Việt sẽ được kéo dài vô thời hạn. Sau đó, ông thả một quả bom: “Chỉ có một cách để ngăn chặn việc giết chóc. Đó là ngăn vũ khí chiến tranh lọt vào tay những kẻ ngoài vòng pháp luật quốc tế ở Bắc Việt Nam.” Để đạt được mục đích đó, “tất cả các lối vào cảng Bắc Việt sẽ được rải mìn. .. . Đường sắt và mọi phương tiện liên lạc khác sẽ bị cắt đứt ở mức tối đa có thể. Các cuộc không kích và hải kích nhằm vào các mục tiêu quân sự ở Bắc Việt sẽ tiếp tục.”
Trong khi Nixon phát biểu, các máy bay tấn công của hải quân cất cánh từ tàu sân bay Coral Sea để thả thủy lôi xuống cảng Hải Phòng. Trong ba ngày tiếp theo, tổng cộng 11.000 quả thủy lôi đã được thả xuống vùng biển Bắc Việt như một phần của Chiến dịch Tiền Bỏ Túi. Cùng lúc đó, Nixon ra lệnh tiến hành một chiến dịch không quân toàn diện chống lại Bắc Việt để phá hủy khả năng tiếp tục tấn công vào miền Nam của QĐNDVN. Mục đích của chiến dịch này, có mật danh là Linebacker, là phá hủy các ngành công nghiệp liên quan đến chiến tranh và cơ sở hạ tầng hỗ trợ ở Bắc Việt, bao gồm cả hệ thống giao thông nội bộ. Kết quả là một trong những chiến dịch ném bom hiệu quả nhất trong toàn bộ cuộc chiến. Trong bốn tháng tiếp theo, máy bay Hoa Kỳ đã tấn công các con đường, cây cầu, tuyến đường sắt, căn cứ quân sự và kho tiếp tế, thả hơn 155.548 tấn vũ khí xuống Bắc Việt. Hành động của Nixon và chiến dịch ném bom sau đó đã bị lên án trên các phương tiện truyền thông Hoa Kỳ, gần như đều dự đoán rằng tuyên bố của tổng thống sẽ hủy hoại cuộc họp thượng đỉnh. Nixon đã gửi một lá thư dài bốn trang cho Brezhnev giải thích lý do ông đẩy mạnh chiến dịch không kích chống lại Hà Nội và lập luận rằng các sự kiện ở Việt Nam không nên ảnh hưởng đến hội nghị thượng đỉnh. Đại sứ Liên Xô Anatoly Dobrynin đã thông báo với Nhà Trắng rằng hội nghị thượng đỉnh sẽ diễn ra theo đúng lịch trình. Chưa đầy một tuần sau những sự kiện này, Nixon và Kissinger đã bay đến Moscow để tham dự cuộc họp thượng đỉnh. Nixon đã thắng cược và đồng thời thông báo cho Moscow rằng ông đã chuẩn bị làm bất cứ điều gì cần làm để giữ cho miền Nam không sụp đổ.
Khi Nixon leo thang chiến tranh chống lại miền Bắc và chơi trò chính trị quyền lực với Liên Xô, tình hình ở miền Nam trở nên tồi tệ hơn. Trong khi Quảng Trị đang trong quá trình sụp đổ, quân BV ở Bình Long đã chuẩn bị cho cuộc tấn công lớn thứ ba vào An Lộc. Vào ngày 6 tháng 5, một tù binh BV từ Sư đoàn 9 VC đã khai với những người bắt giữ y rằng chỉ huy sư đoàn của y đã bị khiển trách vì không chiếm được An Lộc vào tháng 4 và chỉ huy Sư đoàn 5 VC đã khoe khoang rằng quân của ông ta sẽ chiếm được thành phố trong ba ngày. Các thông tin tình báo khác chỉ ra rằng các trung đoàn E6, 174 và 275 của Sư đoàn 5 VC sẽ tấn công từ phía đông, được hỗ trợ bởi các trung đoàn 271 và 272 của Sư đoàn 9 VC và các trung đoàn 141 và 165 của Sư đoàn 7. Chống lại bảy trung đoàn này chỉ vỏn vẹn có khoảng 4.000 binh sĩ VNCH trong đó ít nhất 1.000 người đã bị thương. Các cố vấn trong thành phố không tin binh lính miền Nam có thể chống đỡ một đột tấn kích ác liệt khác. Tướng Hollingsworth tin rằng quân BV đang chuẩn bị cho một cuộc thúc quân ồ ạt vào An Lộc; sau này ông viết: “Tôi đã dành nhiều giờ trong vài ngày tiếp theo để động viên tỉnh trưởng [Đại tá Trần Văn Nhựt], tư lệnh sư đoàn [Tướng Hưng] và các cố vấn của họ hãy giữ vững vị trí. Những nỗ lực của tôi nhằm hạ thấp năng lực của kẻ thù và củng cố tinh thần lực lượng đồng minh gần như là vô vọng. Các vị trí và động thái của kẻ thù, cường độ hỏa lực phòng không và sự gia tăng pháo binh và tên lửa rót vào An Lộc cho thấy một cuộc tấn công toàn diện sắp xảy ra.”
Việc chuẩn bị cho cuộc tấn công bắt đầu vào ngày 9 tháng 5 khi quân BV mở màn bằng cuộc pháo kích khốc liệt kéo dài hai ngày vượt xa mọi cuộc tấn công trước đó. Cường độ pháo kích tăng lên lúc 0035 ngày 11 tháng 5 và trong bốn giờ tiếp theo, 7.000 quả pháo (tức cứ mỗi 5 giây 1 một quả) đã rơi xuống các vị trí của QĐVNCH bên trong thành phố. Vào lúc 0430, tiếng pháo bắt đầu tạm dừng trong 30 phút, nhưng cuộc nã pháo lại tiếp tục một cách nghiêm túc vào lúc 0500. Trong 12 giờ tiếp theo, 10.000 quả đạn pháo đã rót vào thành phố.
Dưới sự yểm trợ của hỏa lực này, bộ đội BV bắt đầu cuộc tấn công trên bộ từ mọi phía của thành phố, với các mũi tấn công chính ở phía bắc và tây bắc. Xe tăng đi trước bộ binh và thọc sâu tại một số điểm trong các phòng tuyến miền Nam; sau đó bộ binh BV ra sức mở rộng các điểm xâm nhập này. Kế hoạch của quân BV là hợp nhất hai điểm xuyên phá, do đó chia cắt lực lượng phòng thủ thành các khu riêng biệt có thể bị tiêu diệt từng phần. Một lần nữa, điều duy nhất cứu vãn được ngày hôm đó là sức mạnh không quân của Hoa Kỳ. MACV tuyên bố tình hình ở An Lộc là tình trạng khẩn cấp về mặt chiến thuật, nên họ huy động một đợt tăng đột biến về hỗ trợ trên không. Không quân, Hải quân và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đã chất đầy tất cả các loại vũ khí có sẵn, để khi máy bay quay trở lại cho đợt xuất kích tiếp theo sẽ có thể nhanh chóng bay trở lại bầu trời An Lộc nhằm hỗ trợ cho lực lượng phòng thủ. Tình hình nghiêm trọng đến mức Phi đoàn tiêm kích chiến thuật số 49 đã tự triển khai từ căn cứ tại New Mexico, đến Căn cứ không quân Takhli, Thái Lan, vào ngày 10 tháng 5, và tham gia chiến đấu trên An Lộc vào ngày hôm sau mà không cần có các chuyến bay làm quen hoặc kiểm tra an toàn thông thường.
Trong suốt trận chiến vào ngày 11 tháng 5, 297 phi vụ hỗ trợ trên không chiến thuật đã được thực hiện để hỗ trợ cho việc phòng thủ An Lộc. Ngoài ra, trực thăng tấn công Cobra và trực thăng vũ trang Spectre cũng tham gia vào trận chiến. Trong khi những chiếc máy bay này cố gắng đối phó với quân BV đang chạm trán gần với quân miền Nam, Tướng Hollingsworth đã chỉ đạo tổng cộng 30 trận oanh tạc B-52 vào các khu vực tập kết của Quân đội Bắc Việt trong khoảng thời gian 24 giờ bắt đầu vào sáng hôm đó. Trận chiến kéo dài thêm bốn ngày nữa, nhưng cái mà một cố vấn gọi là “mô hình hành động và phản ứng gần như mang tính nghi lễ” đã bắt đầu gây ra tổn thất nặng nề cho cả phe tấn công cũng như phe phòng thủ. Những nỗ lực liên tục của quân BV nhằm chiếm An Lộc đã khiến Cộng sản phải trả giá đắt. Gần như toàn bộ lực lượng thiết giáp của họ đã bị tiêu diệt, và cuộc ném bom liên tục trên không đã phá hủy hoặc tiêu diệt toàn bộ các đơn vị bộ binh. Những binh sĩ bị bao vây đã giữ vững thành phố trước mọi khó khăn. Nếu cuộc tấn công thứ ba vào An Lộc đại diện cho thủy triều cao của quân BV thì thất bại của cuộc tấn công đại diện cho một sự thay đổi trong trận chiến. Tướng Hollingsworth kết luận, “Kẻ thù đã mất khả năng thực hiện các hành động tấn công tiếp theo ở Tỉnh Bình Long.”
Trong khi những sự kiện này đang diễn ra ở An Lộc, quân Bắc Việt ở Quân khu II, đã chiếm được Tân Cảnh và Đắk Tô, chuyển sự chú ý của họ sang đánh chiếm Kontum. Thị trấn được bảo vệ bởi Sư đoàn 23 của QĐVNCH, đã được điều động từ căn cứ trước đây của mình tại Ban Mê Thuột. Áp lực của kẻ thù đã gây ra tổn thất cho Tướng Dzu, tư lệnh Quân đoàn II. Ông không tin lực lượng của mình có thể bảo vệ thành phố và dành thời gian gọi điện cho Tổng thống Thiệu để xin chỉ đạo. Thiệu, tin rằng Dzu đã mất tinh thần, cuối cùng đã thay thế Dzu vào ngày 10 tháng 5 bằng Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn.
Đại tá Lý Tòng Bá, chỉ huy Sư đoàn 23 QĐVNCH, được giao phụ trách phòng thủ Kontum. Trên thực tế, ông chỉ huy chỉ một trung đoàn, Trung đoàn 53, nhưng có quyền kiểm soát hoạt động đối với bốn tiểu đoàn biệt động quân, một lữ đoàn không vận và lực lượng địa phương quân. Các đơn vị này có xu hướng duy trì các kênh liên lạc với các tổ chức mẹ của họ, do đó Đại tá Bá phải đối mặt với cùng những khó khăn về chỉ huy và kiểm soát như đã từng làm khổ Tướng Giai ở Quảng Trị. Các tiểu đoàn biệt động quân được bố trí ở các vị trí ngăn chặn tại Võ Định, cách Kontum 20 km về phía tây bắc, và tại Polei Kleng, một trại biệt động quân biên giới. Vào ngày 1 tháng 5, các đơn vị tại Võ Định bị tấn công, và chỉ huy nhóm biệt động ra lệnh cho họ rút lui về Ngô Trang, chỉ cách Kontum 13 km. Vào ngày 9 tháng 5, Polei Kleng đã thất thủ trước một cuộc tấn công lớn của xe tăng và bộ binh. Vào cuối tuần thứ hai của tháng 5, Quân đội Bắc Việt đã chực chờ xung quanh Kontum. Vào ngày 14 tháng 5, Sư đoàn 320 Bắc Việt bắt đầu tấn công, nhưng trân tấn công đầu tiên đã bị phá vỡ khi quân phòng thủ phá hủy đoàn xe tăng dẫn đầu. Tuy nhiên, cuộc tấn công vẫn tiếp tục trong phần còn lại của ngày, và đến đêm, một tiểu đoàn Bắc Việt đã đột phá qua một khoảng trống giữa hai trung đoàn phòng thủ. Hai cuộc không kích B-52 được lên kế hoạch trước đã được sử dụng nhằm ngăn chặn cuộc đột nhập này, giết chết hàng trăm bộ đội miền Bắc. Kontum đã được cứu trong thời điểm đó, nhưng nó đã rất gần với sự sụp đổ. Trong hai tuần tiếp theo, quân phòng thủ VNCH, được hỗ trợ bởi B-52 và không quân chiến thuật, đã đánh bại nhiều nỗ lực khác của quân đội Bắc Việt nhằm chiếm thị trấn. Đại tá Bá đã phát động một số mũi tấn công hạn chế ở các khu vực phía bắc và tây bắc thành phố trong tầm bắn của pháo binh VNCH.
Vào ngày 21 tháng 5, Tướng Toàn, tư lệnh quân đoàn mới, đã khởi xướng một nỗ lực lớn để dọn sạch Đường 14 từ Pleiku về phía bắc đến Kontum. Mặc dù có sự hỗ trợ của không quân Hoa Kỳ, nhưng đoàn tiếp viện của Quân đoàn II đã không thành công trong việc mở đường đến Kontum. Vào ngày 25 tháng 5, quân Bắc Việt đã thực hiện một nỗ lực cuối cùng để chiếm thủ phủ của tỉnh. Mùa gió mùa đang bắt đầu và quân Cộng sản cần phải đạt được một chiến thắng nhanh chóng hoặc rút lui để tái trang bị và tiếp tế. Họ bắt đầu cuộc tấn công bằng một trận pháo kích rầm rộ, tiếp theo là hai cuộc tấn công của tiểu đoàn đặc công. Từ phía bắc và đông bắc, xe tăng và bộ binh địch tấn công và tạo ra một điểm đột phá vào các phòng tuyến của miền Nam. Ngày hôm sau, Cộng sản cố gắng củng cố thắng lợi của mình, nhưng B-52 một lần nữa làm chậm nỗ lực của quân Bắc Việt. Vào ngày 27 tháng 5, hai trung đoàn quân Bắc Việt và một đại đội xe tăng đã tấn công Trung đoàn 44 VNCH. Binh sĩ miền Nam đã phản công, ngăn chặn cuộc tấn công, nhưng quân Bắc Việt vẫn giữ được vị trí của mình bên trong các phòng tuyến của QĐVNCH, và đến đêm ngày 28 tháng 5, hai bên giao tranh tay đôi, giành giật từng ngôi nhà một. Tuy nhiên, quân BV bắt đầu gặp phải những vấn đề nghiêm trọng về tiếp tế, và tình trạng tiêu hao do các cuộc không kích và các máy bay pháo kích bắt đầu gây ra thiệt hại.
Lần đầu tiên bay hỗ trợ cho miền Nam là các trực thăng UH-1B của Quân đội Hoa Kỳ, được trang bị tên lửa TOW (tên lửa chống tăng theo dõi quang học, dẫn đường bằng dây) đang được thử nghiệm. John Paul Vann, cố vấn cấp cao của Quân đoàn II, đã vận động hành lang và nhận được quyền kiểm soát hoạt động của một đơn vị thử nghiệm, Đội TOW hàng không số 1, từ Fort Lewis, Washington, đã được đưa đến miền Nam khi cuộc tấn công bắt đầu. Đơn vị này đã phá hủy 24 xe tăng trong ba ngày đầu tiên triển khai tại Kontum. Sau khi phòng thủ thành công thị trấn, Đại tá Bá đã ra lệnh phản công, giành lại hầu hết lãnh thổ đã mất trong và xung quanh Kontum. Thủ phủ của tỉnh đã được giải cứu một lần nữa.
Đến cuối tháng 7, các đơn vị khác của Quân đoàn II đã giành lại hầu hết các khu vực trước đó do quân miền Bắc chiếm giữ. Tuy nhiên, Vann, người đã đóng vai trò quan trọng trong chiến thắng ở Quân đoàn II, sẽ không được chứng kiến thành quả lao động của mình vì ông đã tử trận trong một vụ tai nạn trực thăng vào ngày 9 tháng 6; người kế nhiệm ông là Chuẩn tướng Michael Healy.
THAY ĐỔI CỤC DIỆN Ở QUÂN ĐOÀN I
Khi các trận chiến ở An Lộc và Kontum diễn ra, QĐNDVN tiếp tục tấn công vào Quân khu I. Trong tháng 4, Quân đoàn VNCH đã đánh trả một số nỗ lực của Sư đoàn 324B Bắc Việt nhằm chiếm các tuyến tiếp cận phía tây và tây nam đến Huế. Những trận chiến này không có kết quả rõ ràng, nhưng quân phòng thủ miền Nam đã xoay xở để tạo ra một tuyến phòng thủ ở chân đồi phía tây Huế kéo dài từ Trại Evans ở phía bắc, qua Căn cứ Yểm trợ Hỏa lực Rakkasan, sau đó về phía đông nam qua CCYTHL Bastogne và Checkmate để liên kết với CCYTHL Birmingham. Bastogne và Checkmate là chìa khóa cho tuyến phòng thủ này vì chúng là lực lượng duy nhất đứng giữa quân Bắc Việt ở phía tây và Huế. Trong hai tuần cuối tháng 4, các vị trí quan trọng này liên tục bị tấn công dữ dội khiến sức mạnh của QĐVNCH tại cả hai căn cứ hỏa lực chỉ còn dưới 50 phần trăm. Chỉ có sự hỗ trợ trên không chiến thuật mới ngăn được quân BV tràn vào các vị trí. Vào ngày 28 tháng 4, sức mạnh tấn công của Bắc Việt do trung đoàn 29 và 803 của Sư đoàn 324B QĐNDVN áp đảo lực lượng phòng thủ tại CCYTHL Bastogne; những người sống sót đã chạy về phía đông. Với sự sụp đổ của Bastogne, Checkmate trở nên dễ bị sụp đổ và lực lượng phòng thủ của nó đã được lệnh phải sơ tán. Việc mất hai căn cứ này đã khiến Huế phải đối mặt với một cuộc tấn công trực diện của địch.
Đến ngày 1 tháng 5, vị trí chiến lược của miền Nam đã trở nên cực kỳ bấp bênh. Sau hơn một tháng giao tranh ác liệt liên tục kéo dài trên khắp đất nước, quân đội miền Nam đã gần như tan rã. Họ đã mất Quảng Trị, Tân Cảnh và Đắk Tô; Kontum phải đối mặt với một cuộc tấn công sắp xảy ra; và An Lộc đang ở giữa một trận chiến sinh tử. Sài Gòn bước vào giờ phút đen tối, và tinh thần quốc gia xuống mức thấp nhất mọi thời điểm. Tình hình đặc biệt ảm đạm ở Quân đoàn I; sự sụp đổ của Quảng Trị đã giáng một đòn tâm lý nghiêm trọng vào cả quân đội và người dân địa phương. Dòng người tị nạn kinh hoàng liên tục đổ về phía nam dọc theo Quốc lộ 1 hướng đến Đà Nẵng đã gây ra tác động làm suy yếu tinh thần binh lính bảo vệ Huế. Ngoài ra, hàng loạt lính đào ngũ và quân lính chán nản, một số từ các đơn vị không còn tồn tại, “lang thang khắp nơi, hốc hác, hỗn loạn và đói khát”; sự hiện diện của họ làm tăng thêm bầu không khí kinh hoàng và hỗn loạn đang ngự trị trên khắp Thành phố Huế..
Tổng thống Thiệu nhận ra mình đang có nguy cơ mất toàn bộ Quân khu I. Vì vậy, ông đã thay thế Tướng Lãm bằng Trung tướng Ngô Quang Trường, tư lệnh Quân đoàn IV ở Đồng bằng sông Cửu Long. Trưởng, một sĩ quan được kính trọng, trước đây đã phục vụ ở Quân khu I và biết rõ khu vực này. Khi đến khu vực này, ông đã lập tức thành lập một sở chỉ huy tiền phương tại Huế để đích thân chỉ huy trận chiến sắp tới. Cùng với cố vấn cấp cao của Hoa Kỳ, Thiếu tướng Frederic J. Kroesen (sau này được kế nhiệm bởi Thiếu tướng Howard H. Cooksey), Trưởng đã thực hiện các bước để ổn định tình hình, thiết lập các tuyến chỉ huy rõ ràng và phân công nhiệm vụ cho từng đơn vị cấp dưới của Quân đoàn I. Sử dụng ba lữ đoàn của Sư đoàn Thủy quân Lục chiến và hai trung đoàn của Sư đoàn 1, Trưởng đã thiết lập một tuyến phòng thủ sâu xung quanh Huế, tập trung vào việc ngăn chặn không cho quân địch tiếp cận từ phía tây và phía bắc. Đồng thời, ông tái lập quyền kiểm soát bên trong thành phố, khôi phục kỷ luật và trật tự, bắt giữ những lính bỏ trốn và đào ngũ, và hỗ trợ dân thường và người tị nạn. Trưởng đã yêu cầu và nhận được sự tăng viện dưới hình thức hai lữ đoàn nhảy dù, được tái triển khai từ các khu vực chiến đấu khác ở Quân khu II và III.
Sau khi Tướng Trưởng ổn định tình hình ở Quân khu I, ông ra lệnh cho lực lượng của mình mở một loạt các cuộc phản công hạn chế để khiến quân Bắc Việt mất cân bằng. Các hoạt động này, được tiến hành vào cuối tháng 5 và tháng 6 bằng các cuộc tấn công bằng trực thăng và đổ bộ đường biển, và được hỗ trợ bởi các cuộc không kích chiến thuật rất hiệu quả của Không quân Hoa Kỳ và máy bay tiêm kich-ném bom của Hải quân, đã đạt được kết quả mong muốn. Quân đội miền Nam đã thành công chiếm lại các căn cứ Bastogne và Checkmate, cùng một số khu vực quan trọng khác trước đây do quân BV chiếm giữ. Những thắng lợi này đã nâng cao đáng kể tinh thần của quân đội miền Nam trong khu vực. Vào ngày 21 tháng 5, quân BV tấn công các vị trí của Thủy quân Lục chiến dọc theo Sông Mỹ Chánh. Lực lượng TQLC trấn giữ ở đó, trong khi Sư đoàn TQLC tiến hành một cuộc đổ bộ đường biển tại Mỹ Thụy, cách tuyến phòng thủ mười km về phía bắc, và một cuộc tấn công bằng trực thăng vào Cổ Lũy, cách bờ biển sáu km về phía tây. Sau nhiều ngày hoạt động sau các tuyến của quân BV, TQLC đã trở lại vị trí của họ dọc theo Mỹ Chánh. Đến cuối tháng 5, Trưởng và lực lượng của ông đã giành lại thế chủ động và, với sự xuất hiện của một lữ đoàn nhảy dù tăng viện, khả năng phòng thủ của Quân đoàn I đã được khôi phục lại trạng thái tốt.
Trưởng đã thiết lập một chương trình tái trang bị và đào tạo lại để củng cố các đơn vị miền Nam vốn đã chịu tổn thất nghiêm trọng hoặc đã tan rã trong hai tháng đầu tiên quân BV tấn công. Thương vong và tổn thất về vật chất của QĐVNCH là rất nghiêm trọng. Riêng Lữ đoàn Thiết giáp 1 đã chịu 1.171 thương vong và mất 43 xe tăng M-48, 66 xe tăng M-41 và 103 xe bọc thép chở quân M-113. Ngoài tổn thất về xe tăng, Quân đoàn I đã mất 140 khẩu pháo, tương đương với 10 tiểu đoàn pháo binh. Sư đoàn 3 chỉ còn lại một đội ngũ ít ỏi và hai trung đoàn còn lại cùng các tiểu đoàn biệt động đều đã mất ít nhất một nửa quân số ban đầu. Trưởng kêu gọi Sài Gòn hỗ trợ để tập hợp lại lực lượng của mình. Để đáp lại, Bộ Tư lệnh Hậu cần Trung ương QĐVNCH và MACV đã thực hiện những nỗ lực gần như phi thường trong việc thay thế các thiết bị đã mất. Trưởng đã ra lệnh một chương trình đào tạo tăng tốc cho số lượng lớn nhân sự đến để thay thế. Ông cũng chỉ đạo rằng một số đơn vị nhất định, chẳng hạn như Đội Xe tăng 20, phải trải qua quá trình tái đào tạo đơn vị.
Sau khi tái thiết lực lượng và ổn định tình hình chiến thuật, ông đã chuẩn bị một kế hoạch táo bạo để chiếm lại Quảng Trị. Khi Trưởng trình bày kế hoạch của mình với Tổng thống Thiệu, ông được cho biết rằng nó quá tham vọng và thay vào đó, ông phải tiến hành một cuộc tấn công phá hoại hạn chế hơn. Bực tức với quyết định này, Trưởng trở về Huế trong tâm trạng rất chán nản. Ngày hôm sau, ông bay đến Sài Gòn và trình bày một lập luận mạnh mẽ hơn cho kế hoạch của mình, đảm bảo sự chấp thuận miễn cưỡng của Thiệu.
Vào ngày 28 tháng 6, Trương phát động Lam Sơn 72, một cuộc phản công hai mũi nhọn trong đó Sư đoàn Nhảy dù thực hiện cuộc tấn công chính dọc theo phía tây nam của Tuyến đường 1 hướng về La Vang, cùng với một cuộc tấn công hỗ trợ của Sư đoàn TQLC dọc theo Tuyến đường 555 hướng về Triệu Phong. Trong khi lính dù và thủy quân lục chiến tấn công về phía bắc, Sư đoàn 1 QLVNCH tiến hành các hoạt động để ghìm chặt lực lượng QĐNDVN ở phía tây nam Huế và Sư đoàn 2 QLVNCH tiến hành các hoạt động tìm kiếm và tiêu diệt ở các tỉnh Quảng Tín và Quảng Ngãi. Sư đoàn 3 QĐVNCH, sau khi hoàn tất việc tái thiết và trang bị, đã đảm nhận trách nhiệm bảo vệ Đà Nẵng.
Cuộc tấn công về phía bắc ban đầu đã có tiến triển, nhưng khi lực lượng miền Nam tiến đến sông Thạch Hãn, sức kháng cự của quân miền Bắc trở nên mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, vào ngày 7 tháng 7, các đơn vị nhảy dù đầu tiên đã đến vùng ngoại ô của Thành phố Quảng Trị. Quân BV phòng thủ đã phản ứng dữ dội và rõ ràng là họ đang có kế hoạch chiếm giữ thành phố đến người lính cuối cùng. Như Tướng Trưởng sau đó đã giải thích, “Thành phố Quảng Trị đột nhiên trở thành một ‘cause celebre’. . . một biểu tượng và một thách thức lớn.” Quyết tâm cố giữ thành phố bằng mọi giá, quân BV đã tăng cường phòng thủ, do đó đã ngăn chặn được cuộc tấn công của miền Nam. Đến lúc đó, các đơn vị của 6 sư đoàn BV đang chiếm đóng các tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Trưởng điều chỉnh kế hoạch, nhưng việc tái chiếm Quảng Trị trong điều kiện khó khăn như vậy đã trở thành một quá trình lâu dài và gian khổ kéo dài đến tận tháng 9. Sử dụng hỗ trợ chiến thuật trên không, hỏa lực hải quân, pháo binh và B-52, quân đội miền Nam đã có thể tiếp tục tấn công, nhưng cuộc tiến công vẫn tẻ nhạt và tốn kém. Vào ngày 8 tháng 9, Trưởng, nhìn thấy cơ hội, đã ra lệnh một cuộc tấn công toàn diện của lực lượng nhảy dù và thủy quân lục chiến. Được hỗ trợ bởi một cuộc tấn công đổ bộ nghi binh trên một bãi biển phía bắc cửa sông Cửa Việt, lực lượng tấn công đã tiến triển chậm chạp nhưng đều đặn. Đó là một cuộc giao tranh ác liệt, và đến ngày 16 tháng 9, TQLC đã kéo cờ miền Nam lên tòa thành cổ ở trung tâm thành phố Quảng Trị.
Trong khi quân Bắc Việt tiến hành các cuộc tấn công quy ước, quy mô lớn ở các Quân khu I, II và III, họ đã thử một chiến thuật khác ở Đồng bằng sông Cửu Long. Khi các trận chiến ở các Quân khu khác bắt đầu diễn ra, tình hình ở Đồng bằng sông Cửu Long vẫn tương đối yên tĩnh. Sau chiến tranh, người ta xác định rằng chiến lược của Bắc Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long có hai mặt. Đầu tiên, quân Bắc Việt muốn cầm chân lực lượng Quân đoàn IV (sư đoàn 7, 9 và 21 của QĐVNCH) để họ không thể được tái triển khai tăng viện cho các quân đoàn khác. Thứ hai, quân Bắc Việt muốn phá vỡ nỗ lực bình định ở Đồng bằng. Để thực hiện điều này, Bắc Việt đã di chuyển Sư đoàn 1 Bắc Viêt vào Campuchia, giáp với các tỉnh cực tây của Đồng bằng. Ngoài ra, hai trung đoàn địch khác, 18B và 95B, di chuyển về phía bắc từ Rừng U Minh đến Tỉnh Chương Thiện. Vào đầu tháng 4, ngay sau khi Sài Gòn ra lệnh cho Sư đoàn 21 của Quân Khu IV tiến về phía bắc đến Lai Khê ở Quân khu III để cố gắng mở Đường 13 đến An Lộc, lực lượng Cộng sản ở Đồng bằng bắt đầu tấn công các vị trí của miền Nam và lực lượng địa phương quân. Một tháng sau, lực lượng miền Nam còn lại ở đó đã giảm thêm khi Sài Gòn cũng tái triển khai Trung đoàn 15 của Sư đoàn 9 đến Quân khu III để hỗ trợ giải cứu An Lộc. Chỉ còn chưa đầy hai sư đoàn miền Nam để xử lý sự hiện diện ngày càng tăng của QĐNDVN ở Đồng bằng. Trong suốt phần còn lại của mùa hè, QĐNDVN tiếp tục gây áp lực lên các đơn vị Quân đoàn IV và lực lượng địa phương quân. Các trận chiến ở Đồng bằng sông Cửu Long không bao giờ đạt đến cùng quy mô và cường độ như những trận chiến diễn ra ở các quân khu khác, nhưng hành động liên tục đã trói chặt một số lượng đáng kể quân đội VNCH. Tuy nhiên, Thiếu tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, người thay thế Thiếu tướng Trưởng làm tư lệnh Quân đoàn IV khi Trưởng được giao quyền chỉ huy Quân đoàn I vào đầu tháng 5, vẫn có thể kiềm chế được quân Bắc Việt. Mặc dù có một số thành quả, nhưng QĐNDVN không thể đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc kiểm soát dân số; không một thị trấn nào ở Đồng bằng sông Cửu Long rơi vào tay Cộng sản.
Mặc dù giao tranh vẫn tiếp diễn trên tất cả quân khu trong suốt phần còn lại của năm, nhưng mức độ đã giảm đi rất nhiều và đến cuối tháng 9, Chiến dịch Nguyễn Huế đã phần lớn kết thúc. Quân đội miền Nam, mặc dù đã phải gánh chịu những thất bại nghiêm trọng lúc đầu, đã giữ vững; như Douglas Pike đã nhận xét, “QĐVNCH và thậm chí cả lực lượng địa phương quân đã đứng vững và chiến đấu như chưa từng có”. Thật không may cho Sài Gòn, QLVNCH không có đủ sức mạnh để đẩy lui lực lượng Bắc Việt còn lại ra khỏi lãnh thổ miền Nam, một tình huống sẽ khiến miền Nam phải trả giá đắt trong những tháng ngày sắp tới.
Người miền Nam đã chống trả được cuộc tấn công dữ dội của Quân đội Bắc Việt, nhưng phải trả giá rất đắt. Chỉ trong hai tháng đầu tiên của cuộc chiến năm 1972, miền Nam đã chịu tổn thất 12.000 người tử trận, 34.000 người bị thương và 15.000 người mất tích. Một cuộc kiểm tra kỹ lưỡng hơn chỉ một trong những trận đánh lớn cho thấy, nếu bao gồm cả dân thường, công cuộc phòng thủ đã khiến miền Nam phải trả giá đắt như thế nào. Ví dụ, tại An Lộc, cuộc pháo kích liên tục, ước tính lên tới hơn 78.000 quả đạn trong ba tháng, đã khiến thành phố gần như bị phá hủy hoàn toàn. Hơn 80.000 dân tị nạn đã phải rời bỏ nhà cửa của họ ở Tỉnh Bình Long và một số lượng tương tự đã chết hoặc mất tích. Những binh lính miền Nam phòng thủ An Lộc đã chịu 5.400 thương vong, trong đó có 2.300 người tử trận hoặc mất tích. Các cố vấn Hoa Kỳ tuyên bố rằng mọi quân nhân trong Sư đoàn 5 QĐVNCH đều bị thương vong; ngay cả những người sống sót cũng bị một hoặc nhiều vết thương trong quá trình giao tranh ở An Lộc. Như một cố vấn đã mô tả về thành phố sau trận chiến, “Những ngôi mộ, những chiếc xe bị cháy rụi và đống đổ nát là minh chứng câm lặng cho cường độ của trận chiến đã diễn ra ở đó.” Tình hình này lặp lại ở Quảng Trị và Kontum, nơi hầu như bị phá hủy hoàn toàn sau cuộc giao tranh dữ dội.
Bất chấp những tổn thất này, lực lượng miền Nam Nam và các cố vấn của họ, với sự hỗ trợ của không quân chiến thuật (xem Bảng 8), đã đánh bại một cách quyết liệt cuộc tổng tấn công của 14 sư đoàn quân BV. Theo ước tính, chỉ riêng trong trận An Lộc, thương vong của quân BV là 10.000 bộ đội tử trận và 15.000 người bị thương. Theo ước tính của tình báo Đồng minh, tổng số QĐNDVN tử trận trong chiến đấu là hơn 100.000 người. Hơn 450 xe tăng, gần như toàn bộ lực lượng thiết giáp của QĐNDVN, đã bị phá hủy, cũng như vô số pháo binh, xe tải và các phương tiện khác.
Việc thẩm vấn tù binh miền Bắc cho thấy mức độ thất bại của Cộng sản. Ví dụ, tại An Lộc, một tù nhân từ Trung đoàn 95C của Sư đoàn VC 9 báo cáo vào ngày 10 tháng 6 rằng trung đoàn chỉ còn lại 30 đến 40 người trong mỗi tiểu đoàn của y. Y nói rằng chỉ huy tiểu đoàn và tất cả các chỉ huy đại đội trong đơn vị của mình đã bị giết chết. Tình hình cũng tương tự như vậy ở các đơn vị Bắc Việt khác. Tù binh từ trung đoàn 141 và 165 của Sư đoàn 7 miền Bắc báo cáo rằng đơn vị của họ đã bị tiêu diệt gần 100 phần trăm. Những tổn thất này đã lặp lại ở hầu hết các đơn vị của QĐNDVN, đặc biệt là những đơn vị tham gia vào các trận chiến ác liệt tại những nơi như Quảng Trị và Kontum. Tham mưu trưởng của Giáp, Tướng Văn Tiến Dũng, đã nói với cán bộ cấp cao của Trung ương Cục Miền Nam rằng họ đã chịu thương vong thảm khốc đến mức họ không thể tiến hành bất kỳ cuộc tấn công mới nào trong ba đến năm năm nữa.
ĐÁNH GIÁ NGUYỄN HUỆ
Mặc dù chịu thương vong nặng nề, cuộc tấn công Nguyễn Huệ năm 1972 ít nhất cũng đã đem lại một phần thắng lợi cho người Cộng sản. Một trong những mục tiêu của cuộc tấn công là chiếm giữ lãnh thổ, và theo một nghĩa nào đó họ đã đạt được, vì quân đội Cộng sản vẫn ở lại miền Nam, đưa Hà Nội vào một lợi thế khi lệnh ngừng bắn được đàm phán có hiệu lực vào năm 1973. Một lĩnh vực khác mà cuộc tấn công đạt đươc thành công là tác động của nó đối với chương trình bình định. Craig Whitney đã đưa tin trên tờ New York Times rằng “lực lượng dự bị chiến lược [của miền Nam] không đủ và chính phủ đã phải bị tước đi khả năng phòng thủ thường xuyên của nhiều khu vực tương đối bình yên của đất nước” để đẩy họ vào cuộc chiến. Như vậy, cuộc tấn công đã đạt được hai mục tiêu: chiếm đóng lãnh thổ ở miền Nam và làm chệch hướng, hoặc ít nhất là làm chậm lại, nỗ lực bình định.
Tuy nhiên, cuộc tấn công đã không đạt được đòn quyết định mà Giáp hy vọng. Người miền Nam đã đứng lên chống lại cuộc tấn công của Bắc Việt và vẫn nguyên vẹn như một quốc gia và lực lượng quân sự. Vì một số lý do, cuộc tấn công đã không áp đảo được người miền Nam như Giáp đã lên kế hoạch. Đầu tiên, Bắc Việt đã đánh giá thấp hiệu quả của không quân Hoa Kỳ. Mặc dù hầu hết bộ binh của Hoa Kỳ đã rời khỏi Việt Nam và những người ở lại không phải là yếu tố ngăn chặn cuộc tấn công của QĐNDVN, nhưng không quân Hoa Kỳ dưới nhiều hình thức vẫn có sẵn, và Tổng thống Nixon không ngần ngại sử dụng nó để hỗ trợ người miền Nam đẩy lùi cuộc xâm lược của Cộng sản. Việc Nixon sử dụng không quân trực tiếp chống lại chính Bắc Việt cũng là một yếu tố góp phần làm chậm lại cuộc xâm lược. Quân Đội Nhân Dân, tờ báo quân sự chính thức của QĐNDVN, đã thừa nhận thiệt hại nghiêm trọng đối với hệ thống giao thông và thông tin liên lạc của Bắc Việt và năng lực sản xuất công nghiệp của nước này trong một loạt bài viết gồm ba phần được xuất bản trong tuần đầu tiên của tháng 6.
Thứ hai, kế hoạch của Bắc Việt có sai sót về mặt chiến lược. Trong nỗ lực áp đảo miền Nam tại ba điểm quan trọng, QĐNDVN đã phân tán các đơn vị chủ lực của mình và cho phép Tổng thống Thiệu điều động lực lượng dự bị chiến lược của mình trên khắp đất nước để triển khai họ ở nơi và khi cần nhất để chống lại các cuộc tấn công của BắcViệt. Ví dụ, các đơn vị của Sư đoàn Nhảy dù đầu tiên được triển khai đến An Lộc, sau đó đến Quân khu II và cuối cùng là đến Quân đoàn I để hỗ trợ cho chiến dịch chiếm lại Quảng Trị. Nếu Giáp tập trung lực lượng áp đảo của mình tại một điểm tấn công, Thiệu sẽ gặp khó khăn trong việc tập hợp sức mạnh chiến đấu để khắc phục với quân số lớn mà QĐNDVN có thể huy động. Khi Quảng Trị thất thủ, Giáp có thể sử dụng thêm một số sư đoàn khác đã được triển khai ở nơi khác và tiến về phía nam dọc theo Đường 1. Thiệu hẳn sẽ rất khó khăn để ngăn chặn họ. Tương tự có thể nói như vậy đối với các cuộc công kích ở An Lộc và Kontum. Khi lực lượng bị phân tán của Giáp phải đối mặt với sức kháng cự mạnh mẽ của miền Nam tại hai nơi đó, ông không có lực lượng dự bị để vượt qua sự kháng cự và duy trì đà tấn công. Ngoài ra, ba mũi tấn công đều khó có thể duy trì về mặt hậu cần. Ví dụ, QĐNDVN cần gần một tuần để tiếp tế cho lực lượng của mình sau khi chiếm được Lộc Ninh, trì hoãn cuộc tấn công vào An Lộc và cho phép lực lượng phòng thủ có thời gian rất cần thiết để chuẩn bị cố thủ. Một ví dụ khác, trong trận Kontum, một cố vấn Hoa Kỳ thuộc Trung đoàn 44 của QLVNCH đã bắt gặp một xe tăng T-54 bị bỏ lại mà không có thiệt hại rõ ràng. Khi xem xét kỹ hơn, ông thấy rằng các thùng xăng đã cạn hoàn toàn.
Một thất bại chiến lược khác là bộ chỉ huy cấp cao của Bắc Việt đã để lực lượng của họ tham gia vào các trận chiến tiêu hao quá lâu sau khi tầm quan trọng của một số mục tiêu địa hình đã qua. Ví dụ, ba sư đoàn đã bị trói buộc ở An Lộc để đạt được điều về cơ bản chỉ là một chiến thắng về mặt tâm lý trong khi họ có thể bỏ qua thành phố đó và tiến xuống Đường 13 để đe dọa trực tiếp Sài Gòn. Mô hình tương tự cũng đúng đối với các trận chiến ở Quân khu I và II. Nói về các trận chiến ở An Lộc và Kontum, Tướng Phillip B. Davidson cho biết: “Một chỉ huy thiết giáp giàu kinh nghiệm sẽ chất bộ binh của mình lên sàn xe tăng và bỏ qua hai thị trấn. Địa hình và thời tiết sẽ cho phép điều đó, và một lực lượng thiết giáp hùng hậu của QĐNDVN xuất hiện ở các khu vực phía sau QĐVNCH sẽ khiến binh sĩ miền Nam vốn đã thấp thỏm sẽ hốt hoảng. . . . Nếu một Abrams hoặc Hollingsworth chỉ huy quân Bắc Việt ở Kontum hoặc An Lộc, những trận chiến đó có thể đã diễn ra hoàn toàn khác.”
Sai lầm chiến lược cuối cùng là thời điểm tấn công. Nếu Bắc Việt chờ đến năm 1973, khi hầu như toàn bộ lực lượng Hoa Kỳ đã rời khỏi miền Nam, chắc chắn họ sẽ dễ dàng hơn nhiều. Ngoài những sai lầm về chiến lược, Bắc Việt đã mắc một số sai lầm về chiến thuật góp phần vào thất bại của chiến dịch Nguyễn Huệ. Mặc dù sử dụng một số lượng lớn xe tăng do Liên Xô và Trung Quốc sản xuất, QĐNDVN liên tục chứng minh sự bất lực của mình trong việc phối hợp sử dụng bộ binh và thiết giáp trong cuộc tấn công. Trung tướng Trần Văn Quang, Phó Tổng tham mưu trưởng QĐNDVN, đã lập báo cáo về việc tiến hành cuộc tấn công trước Bộ Chính trị Liên Xô tại Moscow vào tháng 6 năm 1972, thừa nhận tình hình này, nói rằng, “[Chúng tôi] vẫn chưa thiết lập được một hệ thống chỉ huy và kiểm soát rõ ràng đối với lực lượng của mình… trong đó một số chỉ huy của chúng tôi, thiếu đào tạo chiến thuật và kinh nghiệm chiến đấu chất lượng cao. . . . Đây là những lý do chính khiến lực lượng của chúng tôi chịu tổn thất nặng nề.” Thiếu huấn luyện và kinh nghiệm trong việc điều khiển vũ khí kết hợp trong một cuộc tấn công, QĐNDVN, thay vì tận dụng tác động gây sốc vốn có của xe tăng và khả năng tiến hành các cuộc tấn công sâu vào phòng tuyến của đối phương, đã nhiều lần sử dụng xe tăng một cách rụt rè, chủ yếu như xe hỗ trợ bộ binh chống lại các vị trí phòng thủ được chuẩn bị kỹ lưỡng. Do đó, quân BV đã mất đi lợi thế khi có xe tăng với số lượng lớn. Sau khi vượt qua được cú sốc ban đầu khi đối mặt với xe tăng và thấy chúng dễ bị tiêu diệt như thế nào, đặc biệt là tình huống giao tranh trong thành phố, quân phòng thủ miền Nam đã thành công trong hầu hết các trường hợp phải xử lý xe tăng của miền Bắc. Nếu QĐNDVN khéo léo hơn trong việc phối hợp bộ binh và xe tăng, họ có thể đã đánh bại được quân miền Nam trong nhiều trường hợp.
Sai lầm chiến thuật thứ hai liên quan đến bản chất của các cuộc tấn công của bộ đội BV. Tận hưởng số lượng áp đảo trong hầu hết các trận chiến then chốt, các chỉ huy quân Bắc Việt đã phung phí binh lính của họ vào các cuộc tấn công biển người liên tục. Việc tập trung quân đông đảo cho các cuộc tấn công như vậy khiến họ trở thành mục tiêu béo bở cho B-52 và hỗ trợ không quân chiến thuật, gây ra sự tổn thất to lớn cho họ, nhờ đó thường cứu vãn được nguy cấp cho lực lượng miền Nam. Sự tiêu hao do các cuộc tấn công biển người là một yếu tố chính khiến Bắc Việt mất đà tiến công..
Yếu tố cuối cùng và có lẽ là quan trọng nhất góp phần vào thất bại của cuộc xâm lược của Bắc Việt là giới lãnh đạo Hà Nội đã đánh giá thấp khả năng của miền Nam trong việc chịu đựng được mức độ chiến đấu ác liệt từng chống lại QĐVNCH ở Lào; giới lãnh đạo Quân đội Bắc Việt mong đợi người miền Nam sẽ khuất phục dễ dàng trước sức tấn công của 14 sư đoàn. Khi miền Nam, được hỗ trợ bởi các cố vấn và không lực Hoa Kỳ, cố gắng giữ vững, quân Bắc Việt đã sa lầy vào những trận chiến vô nghĩa làm suy yếu nghiêm trọng sức chiến đấu của họ.
ĐÁNH GIÁ HIỆU SUẤT CHIẾN ĐẤU CỦA MIỀN NAM
Hiệu suất của QLVNCH cần được xem xét kỹ lưỡng hơn, nhưng người ta phải nhớ rằng điểm mấu chốt: rốt cục, miền Nam đã chống lại được mọi thứ mà quân Bắc Việt có thể ném vào họ. Ngoài việc gây ra thất bại quân sự cho kẻ thù, quân phòng thủ VNCH đã giành được một chiến thắng tâm lý quyết định. Họ đã đứng lên chống lại những chỉ huy tài giỏi nhất của Quân đội Bắc Việt, đánh bại họ và ngăn cản họ thành lập “chính phủ giải phóng” ở miền Nam. Tổng thống Thiệu và chế độ của ông đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng mạnh mẽ hơn bao giờ hết, ít nhất là trên bề mặt. Ông và quân đội mình đã giành chiến thắng. Chiến thắng này dường như là bước ngoặt đối với miền Nam.
Cũng như trong Chiến dịch Lam Sơn 719, hiệu suất thực tế của QLVNCH trên chiến trường là lẫn lộn. Cuộc tấn công của Quân đội Bắc Việt đã chứng minh quá rõ những thiếu sót nghiêm trọng liên tục về mặt lãnh đạo và tinh thần trong QLVNCH. Tại Quảng Trị, những binh lính thiếu kinh nghiệm của Sư đoàn 3 mới thành lập đã hoảng hốt và bỏ chạy trước cuộc tấn công của kẻ thù. Đây không phải là trường hợp cá biệt. Việc đào ngũ dưới hỏa lực địch của quân đội miền Nam là một vấn đề liên tục trong thời gian diễn ra cuộc tấn công của Cộng sản.
Theo Tướng Abrams, tài lãnh đạo tiếp tục là thất bại nghiêm trọng nhất trong QLVNCH. Ví dụ, Tướng Lãm, tư lệnh Quân đoàn I, đã bộc lộ những khuyết điểm tương tự đã gần như gây ra thảm họa trong Chiến dịch Lam Sơn 719. Ông từ chối đưa ra quyết định ngay cả khi bắt buộc phải làm như vậy. Hầu hết các chỉ huy sư đoàn đều không khá hơn là bao, kể cả chỉ huy ở An Lộc. Theo Đại tá William Miller, cố vấn cấp cao của Sư đoàn 5 vào đầu trận chiến, “một lò so đã bung ra trong người Tướng [Lê Văn] Hưng” khi QĐNDVN tràn vào Lộc Ninh, và ông đã không thể thực hiện lệnh chỉ huy khi cần thiết nhất. Theo Chuẩn tướng McGiffert, phó tư lệnh Bộ Tư lệnh Hỗ trợ Vùng 3, Hưng “nghẹt thở” dưới áp lực và “không làm gì cả trong một thời gian dài.” Trong cuộc tấn công, Thiệu đã thay đổi chỉ huy “trong mỗi trường hợp hiệu quả không đạt yêu cầu lọt vào sự chú ý của ông”, nhưng Abrams cảm thấy rằng vấn đề thực sự là thiếu các nhà lãnh đạo giàu kinh nghiệm để đề bạt. Vấn đề lãnh đạo cũng bộc lộ xuống chuỗi chỉ huy. Sau trận chiến, McGiffert nói rằng các chỉ huy trung đoàn tại An Lộc, với một vài ngoại lệ, không khá hơn mức trung bình, phát biểu rằng “không có sự kiểm soát. Không có sự giám sát; không có sự nhấn mạnh mệnh lệnh đến tận vị trí thành viên.” Một viên chức miền Nam tại Qui Nhơn, khi nói về thất bại của miền Nam trong việc ngăn chặn QĐNDVN ở Tỉnh Bình Định, đã nói với Craig Whitney của tờ New York Times, “Người Mỹ rất chân thành, họ đã nỗ lực giúp đỡ lực lượng vũ trang Việt Nam, và từ A đến Z, họ đã mang thiết bị đến đây, nhưng có một điều mà người Mỹ không thể mang đến đây là năng lực lãnh đạo—họ không thể mang điều đó vào từ kho vũ khí của mình.” Cường độ chiến đấu đã bộc lộ những điều tồi tệ nhất ở một số người miền Nam, được minh họa tốt nhất qua những gì một cố vấn ở An Lộc gọi là “thương binh Olympic”. Gợi nhớ đến những sự kiện tương tự trong Chiến dịch Lam Sơn 719, trong đó trực thăng sơ tán đương đầu với hỏa lực dữ dội từ mặt đất để hạ cánh xuống ngay hoặc gần An Lộc để đón thương binh chỉ để gặp những tên “thương binh” bỏ xuống các đồng đội bị thương nặng hơn để tranh nhau trèo lên trực thăng đang cất cánh. Sự cố này không phải là riêng lẻ, cũng xảy ra tương tự ở Quảng Trị và Kontum.
Trong nhiều trường hợp, người miền Nam không dám chiến đấu và thường đầu hàng với sức kháng cự chỉ mang tính tượng trưng hoặc không có. Ví dụ, khi kể về sự sụp đổ của Tân Cảnh, một phóng viên của tạp chí Time đã trích dẫn một trong năm sĩ quan Mỹ đã sống sót sau thảm họa, viết rằng, “Tân Cảnh sụp đổ vì binh lính VNCH không bao giờ nhấc cái mông lên và đứng dậy chiến đấu.” Ngay cả khi các cuộc không kích hiệu quả đã mang lại cho họ một cơ hội để phản công lại quân Bắc Việt, họ vẫn không chịu nắm bắt thời điểm đó, thường rúc trong các hang ổ của mình thay vì áp sát kẻ thù. Đó là trường hợp trong những ngày đầu của trận chiến giành Quảng Trị, trong đó một sĩ quan Hoa Kỳ đã nhận xét rằng “hầu hết các kế hoạch của QĐVNCH [để phản công] sẽ gặt hái thắng lợi nếu các chỉ huy chiến trường dám hành động để tận dụng sự hỗ trợ của không quân chiến thuật đầy hiệu quả.” Thật không may, các chỉ huy thường là gốc rễ của vấn đề. Do lãnh đạo kém, nhiều binh lính miền Nam đã mất tinh thần và hoảng sợ. Đó là trường hợp ở Quảng Trị, nơi lực lượng chiến đấu miền Nam hoàn toàn sụp đổ. Paul A. Daly, cố vấn cấp cao của Quảng Trị, sau đó đã nói rằng Quân đội Bắc Việt không “thắng” Tỉnh Quảng Trị, mà đúng hơn là quân miền Nam đã “để thua” tỉnh này. Ông được trích dẫn trong một báo cáo hậu chiến của CORDS: “Về mặt tâm lý, quân Bắc Việt đã ghi điểm cao với việc đưa pháo 130mm và xe tăng vào trận địa. Để biện minh cho sự sụp đổ của mình, một số chỉ huy miền Nam đã sử dụng điều này làm cái cớ—mà không cân nhắc đến việc họ có nhiều pháo binh hơn và xe tăng tốt hơn, chưa kể đến TACAIR (Không quân Chiến thuật), các cuộc không kích B-52 và hỏa lực hải quân. Cuối cùng các tin đồn, đoàn người tị nạn và binh lính rút lui đã làm phần còn lại.”
Mặc dù trường hợp rõ ràng nhất về tính thần chủ bại của QĐVNCH là ở Quảng Trị, các câu chuyện tương tự cũng có thể được kể trên nhiều chiến trường miền Nam trong những ngày đen tối của năm 1972. Ví dụ, tại Bồng Sơn, một thị trấn trên bờ biển phía đông Kontum, phóng viên Craig Whitney của tờ New York Times, khi mô tả tình hình ở đó, đã trích dẫn cố vấn cấp cao Hoa Kỳ trong khu vực, Thiếu tá George H. Watkins Jr.: “Quá hèn nhát. . . . Tinh thần binh sĩ sụp đổ. Một số bỏ chạy và không biết đi đâu. Một số đào ngũ sang VC. Họ chỉ không biết phải làm gì, và đó là do họ thiếu sự lãnh đạo sâu sát.” Khi quân miền Nam đứng lên và chiến đấu, họ thường chỉ làm như vậy một cách miễn cưỡng. Trong nhiều trường hợp, binh lính dù không muốn ở đó nhưng vì không có lựa chọn nào khác ngoài phải chiến đấu để sống còn. Ở An Lộc, một số cố vấn Hoa Kỳ nhận xét rằng thành phố có thể đã thất thủ chỉ cần quân địch mở toác con đường về phía nam để quân miền Nam bỏ trốn qua đó. Điều tương tự cũng đúng với Kontum, nơi một cố vấn nói rằng QĐNDVN đã phạm sai lầm khi cắt đứt con đường giữa Kontum và Pleiku, bởi vì khi làm như vậy, họ đã “khiến binh sĩ VNCH không còn lựa chọn nào khác ngoài chiến đấu.”
Lãnh đạo và kỷ luật ở một số đơn vị QĐVNCH tệ đến mức dân chúng thể hiện không gì ngoài sự khinh miệt đối với bọn lính này, nhiều tên trong số chúng dường như dành nhiều thời gian để cướp bóc hơn là chiến đấu. Tại An Lộc, các vụ cướp bóc và đấu súng giữa quân ta với nhau để giành giật các đợt thả hàng bằng máy bay vào thành phố cho thấy tình trạng vô kỷ luật của một số binh lính miền Nam. Thật không may, hành vi của họ không phải là ngoại lệ. Sydney Schanberg của tờ New York Times đã viết về tình hình ở Huế vào ngày 4 tháng 5: “Các đào binh của quân đội miền Nam chạy trốn khỏi Sư đoàn 3 tan tác đã bỏ lại thành phố Quảng Trị ở phía bắc cho lực lượng Bắc Việt vào thứ hai mà không có một trận giao tranh nào, hôm nay lại lang thang khắp Huế như những tên côn đồ có vũ trang—cướp bóc, hù dọa và bắn vô tội vạ vào những kẻ làm phật ý chúng.”
Một khía cạnh khác của vấn đề lãnh đạo miền Nam liên quan đến năng lực chiến thuật. Một báo cáo tháng 11 năm 1972 nêu rõ:
Các hoạt động trong môi trường thông thường do cuộc tấn công gần đây của kẻ thù áp đặt … đã chỉ ra rằng có hai lĩnh vực hoạt động sẽ còn tiếp tục cần đến hỗ trợ của cố vấn Hoa Kỳ. Vẫn cần có chuyên môn trong lĩnh vực phối hợp hỗ trợ hỏa lực và kiểm soát. Vấn đề không phải là thiếu kiến thức kỹ thuật, mà là do các chỉ huy không đảm bảo hỏa lực được tích hợp đúng cách vào kế hoạch cơ động của các đơn vị trên bộ. Lĩnh vực hoạt động thứ hai cần cố vấn hỗ trợ là lập kế hoạch và triển khai vũ khí kết hợp. Cũng như việc tích hợp hỏa lực, các khía cạnh kỹ thuật của vấn đề tương đối dễ nắm vững, nhưng chúng phải được áp dụng liên tục và nhất quán bởi chỉ huy thích hợp. . . . Lần này đến lần khác, trong cuộc tấn công mùa xuân, những thiếu sót này đã lộ rõ trắng trợn. .
Một phần, lỗi cho những thiếu sót này là do cố vấn của Hoa Kỳ, vốn đã làm việc với các chỉ huy của QĐVNCH trong nhiều năm. Trong quá trình huấn luyện, các cố vấn nhấn mạnh nhiều vào việc lập kế hoạch và tiến hành các hoạt động chiến thuật; tuy nhiên, trọng tâm chủ yếu là các hoạt động quy mô nhỏ, chẳng hạn như các nhiệm vụ tìm-và-diệt. Trong khi tình hình trong cuộc tấn công của QĐNDVN năm 1972 lại rất khác xa với loại tình huống mà ngay cả những chỉ huy giỏi nhất của QĐVNCH đã từng trải qua. Đối mặt với xe tăng khác xa với việc truy đuổi du kích. Như một cố vấn sau này đã mô tả về tình hình ở An Lộc, “Lãnh đạo cấp trung đoàn và cấp cao hơn không được chuẩn bị về mặt chiến thuật hoặc tâm lý cho một chiến dịch kéo dài và dữ dội như chiến dịch Bình Long; các chỉ huy cấp tiểu đoàn thiếu sự chuẩn bị cho sự phối hợp chặt chẽ cần thiết giữa các yếu tố hỏa lực và cơ động.”
Mặc dù có những trường hợp sa sút về mặt lãnh đạo và lòng dũng cảm, nhiều binh sĩ miền Nam khác, TQLC và địa phương quân đã chiến đấu anh dũng, thường trước những khó khăn áp đảo. Khi được chỉ huy một cách khéo léo, binh lính miền Nam sẽ chiến đấu rất kiên cường và ở nhiều nơi chiến đấu giỏi. TQLC ở Quân đoàn duy trì kỷ luật và trật tự trong suốt cuộc tấn công, ngay cả khi sức mạnh của kẻ thù vượt trội khiến họ phải từ bỏ các vị trí phòng thủ. Những chiến sĩ bảo vệ An Lộc bị bao vây liên tục đẩy lùi các cuộc tấn công biển người của Cộng sản, cầm cự lâu hơn người Pháp ở Điện Biên Phủ..
Tuy nhiên, để hoàn toàn khách quan, cần lưu ý rằng khi người miền Nam trụ lại và chiến đấu, thường là nhờ sự hỗ trợ của không quân Hoa Kỳ. Các thành viên của Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ đã đến Sài Gòn vào cuối năm 1972 để điều tra việc tiến hành phòng thủ chống lại cuộc tấn công Phục sinh. Sau đó, họ đã trích dẫn sự hỗ trợ của không quân Hoa Kỳ là yếu tố chính dẫn đến chiến thắng của QĐVNCH. Trong một cuộc họp báo được trình bày trước các thành viên ủy ban tại Trụ sở MACV, báo cáo viên được hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu không có sự hỗ trợ của không quân Hoa Kỳ; báo cáo viên trả lời: “Hôm.nay chúng ta sẽ ngồi họp ở một nơi khác.”
Tướng Abrams, người rời Sài Gòn vào tháng 6 để trở thành tham mưu trưởng Lục quân, trước đó đã nhận xét rằng sức mạnh không quân của Mỹ, chứ không phải vũ khí của miền Nam, đã gây ra tổn thất cho kẻ thù. Những người tham gia ở mọi cấp độ sau đó đã lặp lại đánh giá của ông. Báo cáo sau trận đánh của Sư đoàn 21 QĐVNCH nêu rõ, “Độ chính xác, sức tàn phá và khả năng phản ứng của không quân chiến thuật Hoa Kỳ đã tạo ra sự khác biệt giữa thắng lợi và thảm bại.” Chuẩn tướng McGiffert, từng là phó của Tướng Hollingsworth tại Bộ tư lệnh Hỗ trợ Quân Khu III khi cuộc tấn công bắt đầu, thậm chí còn nhấn mạnh hơn trong đánh giá của mình về tác động của sức mạnh không quân Hoa Kỳ. Trong trận chiến giành An Lộc, ông được trích dẫn là đã nói rằng lực lượng B-52 là “vũ khí hiệu quả nhất mà chúng ta có thể tập hợp” và khẳng định rằng mối đe dọa của các cuộc không kích bằng máy bay ném bom “buộc kẻ thù phải chia nhỏ các đơn vị trên bộ thành các đơn vị nhỏ và khiến cho việc tập hợp lực lượng để tấn công trở nên khó khăn”. Khi được hỏi sau trận chiến rằng ông nghĩ gì về khả năng của QĐVNCH giữ được An Lộc mà không cần sự hỗ trợ của không quân chiến thuật Mỹ, McGiffert trả lời, “Không cần bàn cãi —sẽ không bao giờ thành công được”.
Ngay cả các quan chức miền Nam cũng chia sẻ tình cảm của McGiffert. Tướng Cao Văn Viên đã viết sau chiến tranh: “Sức mạnh hỏa lực khủng khiếp do Không quân Hoa Kỳ tung ra, đặc biệt là các cuộc không kích của B-52, đã làm giảm hiệu quả mọi nỗ lực của địch trên ba mặt trận, phá vỡ các tuyến tiếp tế của địch và giúp QLVNCH bảo toàn được lực lượng trên bộ của họ. Nó cũng mang lại cho QLVNCH sự nghỉ ngơi rất cần thiết để phục hồi sau cú sốc ban đầu, củng cố các tuyến phòng thủ và tập hợp lại để phản công.” Ông nói thêm, “Nếu không có sự hỗ trợ này, thành công của QLVNCH trong việc ngăn chặn cuộc xâm lược của địch là điều không thể.”
Trong khi sức mạnh không quân chiến thuật đóng vai trò quan trọng đối với thành công của miền Nam trên chiến trường, thì chiến dịch không kích chống lại Bắc Việt cũng quan trọng không kém. Nó làm giảm đáng kể khả năng duy trì cuộc tấn công của Hà Nội. Các nhà phân tích tình báo Hoa Kỳ ước tính rằng các cuộc không kích vào Bắc Việt đã tàn phá hệ thống cung cấp đường bộ của Bắc Việt, cắt giảm lượng hàng nhập khẩu đường bộ từ Trung Quốc từ 160.000 tấn xuống còn 30.000 tấn mỗi tháng. Đến cuối chiến dịch, các quả bom của Hoa Kỳ đã phá hủy hầu như toàn bộ các cơ sở lưu trữ dầu của Bắc Việt và ba phần tư công suất phát điện của đất nước. Thiệt hại như vậy đã cản trở nghiêm trọng khả năng tiếp tế của Hà Nội cho các lực lượng của họ ở miền Nam.
Tướng Frederick C. Weyand, người tiếp quản quyền chỉ huy MACV từ Tướng Abrams, đã tóm tắt vai trò tập thể của không quân dưới mọi hình thức khi ông nói rằng “không có khả năng lực lượng miền Nam có thể ngăn chặn cuộc xâm lược nếu không có hiệu quả to lớn của không quân. . . . Tôi không thấy bất kỳ ai trong bất kỳ lực lượng nào, có thể nghi ngờ về vai trò quyết định của các máy bay pháo kích cánh cố định, không quân chiến thuật và B-52. . . .”
Một yếu tố quan trọng khác trong chiến thắng của miền Nam là sự hiện diện của các cố vấn Mỹ trên trận địa, nơi họ đảm nhiệm một số vai trò quan trọng. Đầu tiên, các cố vấn, những người thường ở lại với các đối tác của họ trong suốt trận chiến và chia sẻ số phận của họ hàng ngày, đã thể hiện rõ ràng quyết tâm của người Mỹ, điều này đã khích lệ các đối tác của họ. Việc nâng cao tinh thần của lực lượng phòng vệ có tầm quan trọng đặc biệt trong những giờ phút đen tối nhất của cuộc chiến. Khi các cố vấn được sơ tán, thường là trái với mong muốn của họ, các đơn vị miền Nam mà họ bỏ lại thường xuyên sụp đổ. Khi các cố vấn ở lại trong và xung quanh An Lộc để phối hợp hỗ trợ của Hoa Kỳ, trong khi vẫn liên lạc thường xuyên với Tướng Hollingsworth, sự lãnh đạo tuyệt vời của họ bằng tấm gương đã khích lệ rất nhiều cho binh sĩ miền Nam. Trung tướng Phillip Davidson đã viết rằng các cố vấn “làm vững chắc tinh thần của các chỉ huy QĐVNCH trong thời điểm nguy cấp tuyệt vọng”.
Thứ hai, các cố vấn Hoa Kỳ đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp sự hỗ trợ không quân quan trọng của Hoa Kỳ. Họ là cầu nối giữa những người bảo vệ VNCH và máy bay chiến thuật và trực thăng Mỹ. Nếu không có các cố vấn và điện đài của họ, những người lính VNCH trên mặt đất sẽ không thể nói chuyện với máy bay. Sau trận chiến, Tướng McGiffert nói rằng những chiến sĩ bảo vệ An Lộc không thể cầm cự nếu các cố vấn không ở đó để kiểm soát các cuộc không kích. Ông nói về các cố vấn, “Nhiệm vụ chính của họ và lý do chính để họ tồn tại là phối hợp các hoạt động hỗ trợ không quân chiến thuật của Hoa Kỳ và nếu không có họ thì việc phòng thủ An Lộc sẽ gần như là không thể.”
Thứ ba, các cố vấn cung cấp nguồn “sự thật thực tế” duy nhất cho các chỉ huy cấp cao của Hoa Kỳ kiểm soát các tài sản không quân. Khi sự nhầm lẫn và gần như hoảng loạn thường xuyên xảy ra, việc xác định chính xác những gì đang diễn ra trong các trận chiến quan trọng là chìa khóa. Do đó, khi nói về An Lộc, Tướng McGiffert lưu ý, “Đó là cách duy nhất chúng ta có thể có được bất kỳ loại phân tích khách quan nào về những gì thực sự đang diễn ra ở đó, đó là nói chuyện với họ [các cố vấn] hàng ngày.”
Cuối cùng, quân đội miền Nam vẫn quá phụ thuộc vào Hoa Kỳ. Không quân Hoa Kỳ đã cứu miền Nam. Quân đội miền Nam ở Quân đoàn I thậm chí còn dựa vào hỏa lực của hải quân Hoa Kỳ để thay thế các khẩu pháo bị Bắc Việt chiếm được khi quân đội Sài Gòn rút khỏi Quảng Trị. Máy bay vận tải của Mỹ đã vận chuyển quân đội miền Nam và vật tư trên khắp đất nước. Các cố vấn Hoa Kỳ đã hỗ trợ các đối tác của họ và phối hợp với hỏa lực của Hoa Kỳ. Quân đội miền Nam đã sống sót sau cuộc xâm lược của QĐNDVN năm 1972, nhưng họ mắc nợ Hoa Kỳ cho phần lớn thành công của mình chứ không phải vì khả năng đánh bại quân địch trên chiến trường. Trong nghiên cứu gần đây đã được chỉnh sửa về Chiến dịch Phục sinh, Dale Andrade kết luận rằng “Mặc dù Việt Nam hóa, quân đội miền Nam vẫn thể hiện vào năm 1972 nhiều vấn đề tương tự như mười năm trước đó, một thực tế đã được chứng minh rõ ràng trong Chiến dịch Phục sinh. . . . Cuộc tấn công Phục sinh cho thấy mối quan hệ đối tác này [giữa Hoa Kỳ và QLVNCH] có thể hiệu quả, nhưng chỉ khi hỏa lực của Hoa Kỳ vẫn dồi dào.”
NIXON TUYÊN BỐ VIỆT NAM HÓA LÀ THÀNH CÔNG
Bất chấp thực tế của tình hình năm 1972, kết quả cuối cùng của các trận chiến năm 1972 (không tính đến tác động của các cố vấn Hoa Kỳ và không quân Hoa Kỳ) có thể được sử dụng làm bằng chứng cho thấy Việt Nam hóa đã có hiệu quả, hoặc ít nhất là đang hiệu quả. Chính quyền Nixon đã rao giảng ý tưởng này cho tất cả những ai muốn lắng nghe, sử dụng chiến thắng của miền Nam để tuyên bố chính sách Việt Nam hóa của tổng thống là thành công. Như trợ lý của Henry Kissinger là Les Janka đã nói với Tướng Haig, “Cách cuộc tấn công này được báo chí Hoa Kỳ đưa tin có thể là phép thử cuối cùng thực sự về sự thành công của Việt Nam hóa… vì chính người dân là đối tượng mà chúng ta phải thuyết phục.” Theo đó, chính quyền đã bắt đầu một chiến dịch ngay lập tức tạo ra bộ mặt tốt nhất cho chiến trường miền Nam. Ngay từ ngày 26 tháng 4, khi cuộc chiến vẫn diễn ra ác liệt trên ba mặt trận và cục diện vẫn còn rất bị quan, Nixon đã lên truyền hình quốc gia để huy động sự ủng hộ cho miền Nam. Ông báo cáo: miền Nam đang chiến đấu dũng cảm và giỏi giang trong công cuộc tự vệ của mình. Họ đang gây ra thương vong rất nặng nề cho lực lượng xâm lược, lực lượng đã không giành được chiến thắng dễ dàng như một số người dự đoán cách đây ba tuần. . . . miền Nam sẽ chứng minh được khả năng tự vệ của mình trên bộ trước các cuộc tấn công của kẻ thù trong tương lai. . . . Tôi xác nhận rằng Chiến tranh Việt Nam đã tự thể hiện mình một cách đầy đủ để Hoa Kỳ có thể tiếp tục chương trình rút quân mà không gây phương hại đến mục tiêu chung của chúng ta là đảm bảo miền Nam tồn tại như một quốc gia độc lập. Do đó, tối nay tôi tuyên bố rằng trong hai tháng tới, 20.000 người Mỹ sẽ được đưa về nước từ Việt Nam. Quyết định này có sự chấp thuận hoàn toàn của Tổng thống Thiệu và Tướng Abrams. Quyết định này sẽ giảm mức trần quân đội của chúng ta xuống còn 49.000 người vào ngày 1 tháng 7, giảm đến nửa triệu quân kể từ khi chính quyền này nhậm chức. Mặc dù Nixon cũng tuyên bố trong bài phát biểu này rằng cuộc ném bom Bắc Việt sẽ tiếp tục cho đến khi Cộng sản ngừng cuộc tấn công, ông đã không đề cập rằng, dù đã cắt giảm quân số, ông vẫn sẽ gửi thêm không quân và hải quân đến khu vực này để đảm bảo miền Nam không bị tràn ngập.
Sau khi cuộc tấn công kết thúc, người phát ngôn của chính quyền đã hạ thấp vai trò của không quân Hoa Kỳ và các cố vấn Hoa Kỳ và ca ngợi sự kiên định của miền Nam. Trích dẫn “quyết tâm mạnh mẽ của quân bảo vệ miền Nam,” họ tuyên bố chiến thắng ở An Lộc và Kontum là bằng chứng rõ ràng cho thấy chính sách chuyển giao chiến tranh cho miền Nam đang có hiệu quả. Một báo cáo của không quân được công bố ngay sau khi cuộc tấn công kết thúc, cho rằng “Việt Nam hóa, xét về khả năng của lực lượng quân sự trên bộ và trên không của Việt Nam Cộng hòa để đối đầu và chống lại đà nổi dậy của Cộng sản, đã chứng minh được sự thành công của mình.” Nhiều người trong quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam đồng ý với tuyên bố này. Các báo cáo của MACV được công bố vào thời điểm đó đã ca ngợi thành tích của những người bảo vệ miền Nam. Đại tá Theodore C. Williams Jr., cố vấn cấp cao, Sư đoàn 9 QĐVNCH, đã viết trong báo cáo tóm tắt của sĩ quan cấp cao rằng “Nỗ lực cố vấn của Hoa Kỳ, được tăng cường bởi sự hỗ trợ của không quân Hoa Kỳ, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hỗ trợ QLVNCH để tự định hình thành một lực lượng mạnh mẽ, khả thi.” Tương tự như vậy, Đại tá John C. Evans, cố vấn cấp cao, Sư đoàn 18 QĐVNCH, báo cáo rằng “có thể khẳng định chắc chắn Sư đoàn Bộ binh 18, QĐVNCH, có khả năng chiến đấu liên tục mà không cần cố vấn Hoa Kỳ”. Những báo cáo như vậy, mặc dù có thể hiểu được trong sự phấn khích tự nhiên sau một trận chiến thành công và chiến đấu gian khổ, nhưng không tiết lộ được kết quả của trận chiến đã sít sao như thế nào.
Chính quyền Nixon, sau khi xác lập “thành công” của Chiến tranh Việt Nam hóa, không muốn nghe bất cứ điều gì trái ngược lại. Đại tá Bill Miller, khi trở về Hoa Kỳ từ An Lộc vào tháng 5 năm 1972, đã được triệu tập trước Ủy ban Quân vụ Hạ viện để làm chứng về thành tích của QĐVNCH tại An Lộc. Trong các phiên điều trần này (và trong các cuộc thảo luận bổ sung với Thượng nghị sĩ John Stennis, Alexander Haig và các quan chức chính phủ cấp cao khác cùng các thành viên của phương tiện truyền thông), Miller đã làm chứng rằng theo ý kiến của ông, QĐVNCH thực sự không giành được chiến thắng, mà chỉ đơn giản là tránh được thất bại với sự hỗ trợ của các cố vấn và không quân Hoa Kỳ … Ông cũng nói rằng việc loại bỏ các cố vấn và hỗ trợ không quân của Hoa Kỳ trước thời hạn sẽ dẫn đến thảm họa cho Nam Việt Nam.
Cuối cùng, những cảnh báo của Miller và những người khác có cùng quan điểm đã nhận được rất ít sự tin tưởng. Vào tháng 8, Bộ trưởng Quốc phòng Laird, muốn giảm số lượng cố vấn Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam, đã yêu cầu Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân xem xét lại tình trạng của hoạt động cố vấn. Báo cáo kết quả đã chấp thuận việc loại bỏ theo lịch trình thêm 1.700 vị trí cố vấn và giảm các nhóm cố vấn sư đoàn từ 36 xuống còn 15. Một nghiên cứu riêng của Bộ Quốc phòng đã khuyến nghị một lực lượng cố vấn gồm 2.500 người vào năm 1973 và giảm vai trò của các cố vấn chiến đấu để tập trung nhiều hơn vào an ninh lãnh thổ và quản lý nhân sự. Do đó, tại thời điểm cần các cố vấn nhất để giúp tái thiết QLVNCH sau thảm họa gần như thảm khốc của cuộc tấn công của lực lượng Bắc Việt, thì số lượng của họ đã bị cắt giảm và họ đã bị loại khỏi chiến trường.
Vào thời điểm này, sau khi được tuyên bố là một thành công vang dội, nỗ lực Việt Nam hóa bắt đầu suy yếu. “Chiến thắng” của miền Nam năm 1972 đã trở thành một trong những lý do cơ bản cho việc rút quân hoàn toàn của Hoa Kỳ và “hòa bình trong danh dự” của Nixon.
Trong bài phát biểu trước Quốc hội vào ngày 1 tháng 6, khi trở về từ hội nghị thượng đỉnh ở Moscow, Tổng thống Nixon đã nói: “Tôi nhấn mạnh với các bạn một lần nữa, chính quyền này không có mục tiêu nào cao hơn—một mục tiêu mà tôi biết tất cả các bạn đều chia sẻ—là kết thúc sớm và trong danh dự cuộc chiến tranh Việt Nam. Chúng ta đang kết thúc cuộc chiến ở Việt Nam, nhưng chúng ta sẽ kết thúc theo cách không phản bội bạn bè, không mạo hiểm mạng sống của những người Mỹ dũng cảm vẫn còn đang phục vụ ở Việt Nam, không phá vỡ lòng tin với chiến sĩ bị kẻ thù bắt làm tù binh, hoặc làm hoen ố danh dự của Hoa Kỳ.”
Màn kết sớm và trong danh dự này sẽ diễn ra như thế nào đối với miền Nam vẫn chưa được biết. Rõ ràng là Hoa Kỳ đang trên đường rời khỏi miền miền Nam; thử thách thực sự đối với Thiệu, quân đội của ông và quốc gia của ông sẽ đến sau khi các lực lượng Hoa Kỳ, bao gồm cả lực lượng không quân có mặt khắp nơi đã đóng vai trò quan trọng vào năm 1972, sẽ rời đi và Không quân Việt Nam Cộng hòa phải tự mình đứng vững trên đôi chân của mình. Đó sẽ là biện pháp tối hậu của Việt Nam hóa.
Last updated
Was this helpful?