Bài 12: Tượng Hai Bà Trưng & Trần Hưng Đạo
Last updated
Was this helpful?
Last updated
Was this helpful?
Loạt bài Theo Dòng Lịch Sử
Bài 12: Tượng Hai Bà Trưng & Trần Hưng Đạo
Thời Pháp thuộc, công trường Mê Linh thoạt đầu được đặt tên theo tên Đô đốc thủy quân người Pháp và từng là Thống đốc Nam Kỳ đầu tiên, Charles Rigault de Genouilly (1807-1873, tại vị tháng 2 - tháng 10/1859). Ban đầu, tượng của vị đô đốc thủy quân này đặt nơi đây.
Năm 1955, ngày lễ Hai Bà Trưng được công nhận là một ngày lễ chính thức tại miền Nam. Tháng 3/1962, chính phủ ông Ngô Đình Diệm khánh thành tượng Hai Bà Trưng ở công trường Mê Linh (Đổi tên từ tên cũ Genouilly sau 1954) để vinh danh Hai Bà - Người dân Sài Gòn lúc đó vẫn quen gọi là tượng Hai Bà. Tượng do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ vẽ và điêu khắc gia Nguyễn Văn Thế thực hiện.
Tượng Hai Bà Trưng dựng trên một bệ cao ba chân, phía trước là đầu và vòi voi, tiếp nữa là hai chân voi. Tượng được giới mỹ thuật lúc đó đánh giá là có nét điêu khắc đặc sắc và mới mẻ. Khi khánh thành, bà Trần Lệ Xuân, phu nhân của Cố vấn Ngô Đình Nhu, chủ tịch Hội Phụ nữ Liên đới tới cắt băng.
Tuy nhiên, sau đó, nhiều người dân Sài Gòn lại thấy tượng Hai Bà có nét phảng phất giống mẹ con bà Trần Lệ Xuân và cô Ngô Đình Lệ Thủy (?). Sau khi chính quyền ông Diệm mất vì cuộc cách mạng 1/1/1963, ngay ngày 2/11, một số người quá khích đã tập trung ở công trường Mê Linh, giật đổ tượng Hai Bà như muốn xóa bỏ dấu tích của chế độ trước. Nhiều người chứng kiến vụ giật đổ đó đã kể, đầu 2 pho tượng ấy sau đó được bỏ lên xích lô máy đem đi diễu hành khắp phố, rồi không biết thất lạc nơi đâu. Từ 1963 - 1967, bệ voi vẫn nằm ở công trường nhưng không có tượng mới nào đứng trên đó.
Sau, có một thời gian công trường Mê Linh được giao cho Hải quân nên được đổi tên thành công trường Bạch Đằng. Đây vừa là quân cảng vừa là bến sông tiếp nhận tàu bè. Rồi tới tượng Đức Thánh Trần xuất hiện ở đó.
Ít người biết, bức tượng nổi tiếng suốt gần 60 năm ấy lại là tác phẩm đầu tay của Phạm Thông, một chàng trai vừa tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Sài Gòn. Năm 1967, khi ông Thông mới 24 tuổi, binh chủng Hải quân của Việt Nam Cộng Hòa đã kết hợp với Hội Đức Thánh Trần tổ chức cuộc thi tạc tượng Trần Hưng Đạo để đặt thay cho tượng Hai Bà Trưng bị phá hủy. Ban đầu, ý tưởng của ông là tượng ngồi nghiền ngẫm Binh Thư Yếu Lược nhưng khi bắt tay vào thiết kế, hình ảnh Hưng Đạo Đại Vương đứng trên cao, tay chỉ xuống sông Sài Gòn ở vị trí bến Bạch Đằng như bây giờ đã thay thế. Cuộc thi đó có 13 đồ án tham dự và cuối cùng, điêu khắc gia Phạm Thông thắng giải.
Tượng cao gần 6m, đứng trên một bục lăng trụ tam giác cao gần 10m. Trụ tam giác này tận dụng vị trí kiềng ba chân đã đặt tượng Hai Bà Trưng trước đó. Hình ảnh vị Đại tướng lừng danh lịch sử trong quân phục võ tướng, một tay tì lên đốc kiếm, một tay chỉ xuống sông như nói: “Phen này nếu ta không phá xong giặc Nguyên, thề không bao giờ trở lại khúc sông này nữa” mà Phạm Thông đưa ra đã thuyết phục ban tổ chức, dù cuộc thi đó có nhiều điêu khắc gia nổi tiếng và hơn tài ông tham dự.
Trong hồi ức của mình, nhà văn Phan Lạc Tiếp cho biết điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, người nổi tiếng với tượng Tiếc Thương, cũng tham dự cuộc thi tạc tượng Trần Hưng Đạo. Ý tưởng của ông Thu là một mẫu tượng đại tướng đang ngồi, tay trái đè lên đốc kiếm, tay phải cầm binh thư. Đại tướng hướng mắt về phương Bắc, vừa là biểu tượng cho người đi biển hướng về sao Bắc Đẩu, vừa thể hiện nỗi lo âu muôn đời của người Việt về giữ yên bờ cõi. Rất tiếc, mẫu thiết kế này không được chọn.
Phạm Thông kể lại, ông phải làm việc rất nghiêm túc. Thay vì thời gian thực hiện chỉ vài tháng, cuối cùng đã kéo dài tới gần một năm. Ngày khánh thành, 5 giờ sáng, ông còn phải trèo lên tượng để đục đẽo, sửa chữa.
Niềm hạnh phúc của ông Phạm Thông là sau này, có 2 phiên bản tượng Trần Hưng Đạo nữa được đúc để gắn ở Quy Nhơn và Vũng Tàu. Sau 1975, ông sang Mỹ định cư.