2-Sài Gòn Gia Định thời Đàng Trong (2)
Sài Gòn Gia Định thời Đàng Trong (2)
Bộ máy cai trị của chúa Nguyễn ở Gia Định trước khi Tây Sơn khởi nghĩa
Thời Đàng Trong, chính quyền của các chúa Nguyễn được tổ chức theo kiểu quân chính. Đây cũng là mô hình tổ chức chung của các chính quyền ở Việt Nam từ chiến tranh Lê Mạc đến đầu thời Nguyễn, theo đó lực lượng võ tướng nắm giữ binh quyền cũng đồng thời là người đứng đầu hệ thống chính trị – hành chính từ trung ương tới địa phương. Nói rộng ra, mô hình này còn khá phổ biến ở các quốc gia Đông Á, chẳng hạn ở Nhật Bản từ thế kỷ XIV thì các Tướng quân (Shogun) mới thực sự là người cầm quyền, Thiên hoàng chỉ là làm vì. Ở Trung Quốc do nhà Thanh vừa thay nhà Minh cai trị nên quyền lực nhà vua có khác, nhưng bộ máy hành chính cũng tổ chức theo mô hình quân chính với phiên chế Bát kỳ (Bát kỳ người Mãn, Bát kỳ người Hán và Bát kỳ người Mông Cổ). Ở Việt Nam thì các chúa Trịnh từ Trịnh Tùng trở đi đều tự xưng là Đại Nguyên soái Thống quốc chính, còn các chúa Nguyễn từ Hy tông Phước Nguyên trở đi đều tự xưng là Tiết chế thủy bộ chư dinh…, tóm lại đều nắm cả quyền coi quân trị dân.
Sau khi Nguyễn Hữu Cảnh xác lập bộ máy chính quyền Việt Nam ở Gia Định năm 1698, năm 1731 chúa Nguyễn đặt thêm chức Điều khiển thống nhiếp việc binh ở phủ Gia Định, lúc bấy giờ gồm hai dinh Trấn Biên, Phiên Trấn, đến 1732 có thêm dinh Long Hồ. Dinh Phiên Trấn đại khái nằm trên khu vực Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Long An hiện nay. Theo quy chế chung của chính quyền Đàng Trong, các dinh đều có võ tướng làm Trấn thủ hay Lưu thủ, ngoài ra dinh Phiên Trấn đặt quan Ký lục, Cai án, Cai bạ mỗi chức 1 viên, sở thuộc có Ty Tướng thần lại gồm 2 viên Câu kê, 3 viên Cai hợp, 7 viên Thủ hợp và 10 người lại viên. Năm 1744 Thế tông Phước Hoạt xưng vương, chia Đàng Trong thành 12 dinh và 1 trấn, vẫn giao cho các võ tướng trấn thủ.
Năm 1748 vua Chân Lạp Nặc Tha (Thomo Reachea II Angk Êm) bị Nặc Nguyên (Angk Snguon) là con của vua cũ Nặc Thâm (Ramatlipadey – Raeah Angk Tong) đem quân Xiêm về đánh đuổi. Nặc Tha thua, chạy qua Gia Định rồi chết ở đó. Nặc Nguyên lên ngôi, xưng là Chey Chetta V. Năm 1750, Nặc Nguyên đem binh lấn hiếp người Côn Man (tức người Chiêm Thành cũ) ở biên giới Đàng Trong – Chân Lạp, phía Bắc lại thông sứ với chúa Trịnh Doanh, hình thành một liên minh đe dọa chúa Nguyễn. Thế tông Phước Hoạt tức giận, năm 1753 sai Cai đội Thiện Chính làm Thống suất, Ký lục dinh Bố Chánh Nguyễn Cư Trinh làm Tham mưu, đem tướng sĩ năm dinh Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ đánh Chân Lạp. Từ đó trở đi phủ Gia Định tuy chỉ có ba dinh nhưng lại thống thuộc việc binh của cả hai dinh Bình Thuận, Bình Khang. Danh hiệu Ngũ dinh ra đời từ đó. Nhờ được mở rộng quyền lực – tăng cường thực lực như vậy nên từ 1753 trở đi các viên Điều khiển, Tham mưu Gia Định từ Thiện Chính, Nguyễn Cư Trinh, Trương Phước Du đã có đủ điều kiện để thực hiện thông suốt chủ trương tàm thực (tằm ăn dâu) trong việc khai thác phương Nam. Năm 1756, tiếp thu đất Tầm Bôn (khu vực từ Cái Bè lên Hồng Ngự, giữa Tiền Giang và Đồng Tháp Mười), Lôi Lạp (khu vực từ cửa biển Soài Rạp qua Gò Công, Bến Tre lên phía nam Đồng Tháp Mười ven Tiền Giang). Năm 1757, tiếp thu đất Tầm Phong Long (vùng An Giang) nối liền với trấn Hà Tiên phía tây sông Hậu, chính thức xác lập bản đồ Việt Nam ở Đàng Trong gần như hiện nay.
Từ chức Điều khiển Gia Định năm 1731 tới chức Điều khiển Ngũ dinh năm 1753, bộ máy cai trị của chúa Nguyễn ở Gia Định trong thực tế là cơ quan đứng đầu bộ máy hành chính – quân sự Việt Nam ở đồng bằng Nam Bộ, chỉ trừ trấn Hà Tiên lúc bấy giờ do cha con Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích nối nhau cai trị theo quy chế tự trị. Chính trên cơ sở này mà sau khi Tây Sơn khởi nghĩa, năm 1775 Duệ tông Phước Thuần chạy vào Nam đã đóng lại ở đây, khiến Gia Định trở thành đại bản doanh, đất tranh chiếm quyết liệt của cả hai bên trong chiến tranh Tây Sơn – Nguyễn đến 1777 rồi Tây Sơn – Nguyễn Ánh từ 1778 trở đi.
Nhiệm vụ của Điều khiển Gia Định và Điều khiển Ngũ dinh
Xác lập bộ máy cai trị ở đồng bằng Nam Bộ, chính quyền Đàng Trong cũng phải hành xử các nhiệm vụ ngoại giao trực tiếp liên quan tới quyền lợi của mình ở khu vực này. Tuy nhiên trong hoàn cảnh giao thông liên lạc thời bấy giờ, việc chỉ đạo của triều đình Đàng Trong rất khó tiến hành được một cách kịp thời vì khoảng cách về không gian giữa Phú Xuân với vùng Nam Bộ. Cho nên trong nhiều trường hợp, hệ thống chính quyền của chúa Nguyễn ở Nam Bộ (ở phủ Gia Định và trấn Hà Tiên) phải đảm trách luôn nhiệm vụ ngoại giao với chính quyền Xiêm La và Chân Lạp. Năm 1714 khi Chân Lạp có nội loạn, vua Chân Lạp Nặc Yêm cầu viện hai dinh Phiên Trấn, Trấn Biên, Đô đốc Phiên Trấn Trần Thượng Xuyên và Phó tướng Trấn thủ Trấn Biên Nguyễn Cửu Phú sai người mang thư về tâu, Hiển tông Phước Châu cho phép hai người “tùy nghi xử trí”. Tiền lệ này đưa tới tình hình là ngoài Tổng binh Mạc Cửu từ 1708 đến Đô đốc Mạc Thiên Tích từ 1736 ở trấn Hà Tiên được hưởng quy chế tự trị nên dĩ nhiên phải đảm nhiệm các hoạt động ngoại giao cần thiết, các viên Điều khiển Gia Định từ 1731 rồi Điều khiển Ngũ dinh từ 1753 cũng trở thành một loại Khâm sứ có toàn quyền thay mặt chúa Nguyễn trong hoạt động ngoại giao với các quốc gia lân bang phía nam. Cho nên trong thời gian trước 1775 mức độ phối hợp giữa các tướng lĩnh Đàng Trong ở Hà Tiên và Gia Định là yếu tố quyết định những thắng lợi hay thất bại trên các phương diện cả ngoại giao lẫn quân sự của triều đình Phú Xuân với Ch�
�n Lạp và Xiêm La.
Năm 1753 Thế tông Phước Hoạt sai Thiện Chánh làm Điều khiển Ngũ dinh, Nguyễn Cư Trinh làm Tham mưu vào Nam đánh Nặc Nguyên vua Chân Lạp gây hấn ở biên cương. Nặc Nguyên thua to, xin hiến đất hai phủ Tầm Bôn, Lôi Lạp và nộp bù lệ cống còn thiếu ba năm trước để chuộc tội. Nguyễn Cư Trinh tâu lên, Thế tông Phước Hoạt ưng thuận. Qua 1757 Nặc Nguyên chết, Nặc Nhuận lên làm vua Chân Lạp nhưng bị con rể là Nặc Hinh giết chết cướp ngôi, con Nhuận là Nặc Tôn chạy qua Hà Tiên nương nhờ Mạc Thiên Tích. Điều khiển Ngũ dinh Trương Phước Du thừa thế tiến đánh, Hinh thua chạy rồi bị giết. Trương Phước Du, Nguyễn Cư Trinh và Mạc Thiên Tích tâu lên, Thế tông Phước Hoạt sai Mạc Thiên Tích và tướng sĩ Ngũ dinh đưa Nặc Tôn về nước. Nặc Tôn bèn dâng đất Tầm Phong Long cho chúa Nguyễn, lại nhận Thiên Tích làm cha nuôi, cắt đất năm phủ để tạ ơn, Thế tông Phước Hoạt cho trấn Hà Tiên nhận năm phủ ấy, xác lập bản đồ Việt Nam ở Đàng Trong gần như hiện nay. Nhưng đến 1765 Duệ tông Phước Thuần lên ngôi, triệu Nguyễn Cư Trinh về Phú Xuân, lấy Tống Văn Khôi làm Điều khiển Ngũ dinh thì quan hệ giữa Đô đốc Hà Tiên với Điều khiển Ngũ dinh không còn được như trước nữa. Trong khi đó sau nhiều lần xung đột với vua Xiêm Trịnh Tân, binh lực của Mạc Thiên Tích ở Hà Tiên dần dần suy yếu. Năm 1771 được tin Trịnh Tân định đánh Hà Tiên, Mạc Thiên Tích phi báo với Điều khiển Ngũ dinh ở Gia Định thì Tống Văn Khôi chần chừ không chịu phát binh cứu viện, cuối năm ấy quân Xiêm tới đánh, Hà Tiên thất thủ. Mạc Thiên Tích chạy qua Kiên Giang rồi tới Trấn Giang (Cần Thơ). Tướng Xiêm là Trần Liên đem thủy quân truy kích, bị Lưu thủ dinh Long Hồ Tống Phước Hiệp chặn đánh, phải bỏ hết chiến thuyền lên bờ chạy bộ, lại bị Cai đội đạo Đông Khẩu (Sa Đéc) Nguyễn Hữu Nhân đón đánh giết mất quá nửa, phải rút về giữ Hà Tiên. Năm 1773 bị quân Việt đánh bại ở Phnom Penh, Trịnh Tân xin giảng hòa, trả lại Hà Tiên nhưng quan hệ bang giao giữa chính quyền Đàng Trong ở Gia Định với chính quyền Trịnh Tân ở Bangkok từ 1775 vẫn rất căng thẳng, tình hình này kéo dài đến khi Rama I lên ngôi vua Xiêm năm 1782.
Kinh tế nông nghiệp ở Gia Định thời Đàng Trong
Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục hoàn thành năm 1777 từng viết “Phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ, Soài Rạp, cửa Đại, cửa Tiểu toàn là rừng rậm hàng mấy nghìn dặm, họ Nguyễn trước đánh nhau với Cao Miên mà lấy được, mới chiêu mộ những dân có vật lực ở các phủ Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn xứ Quảng Nam cho dời tới ở đó, phát chặt mở mang, hết thảy thành bằng phẳng, đất nước màu mỡ, cho dân tự chiếm, trồng cau và làm nhà cửa (…). Người giàu ở các địa phương hoặc bốn năm mươi nhà, hoặc hai ba mươi nhà, mỗi nhà điền nô có khi tới năm sáu mươi người, trâu bò có khi tới ba bốn trăm con, cày bừa cấy gặt rộn ràng không rỗi, hàng năm đến tháng 10 tháng 12 thường giã thành gạo bán lấy tiền để ăn tết. Từ sau tháng giêng trở đi là không làm việc xay giã. Bình thời chỉ bán ra Phú Xuân để đổi lấy hàng Bắc, lụa lĩnh trừu đoạn, áo quần tốt đẹp, ít có vải bô (…). Từ cửa biển đến đầu nguồn đi sáu bảy ngày, hết thảy là đồng ruộng, nhìn bát ngát, rộng phẳng như thế đấy, trồng lúa rất hợp, lúa nếp lúa tẻ gạo đều trắng dẻo (…). Các giống lúa đều tháng 5 gieo mạ, mùa thu tháng 7 thì cấy, tháng 11 thì gặt, đến tháng giêng mới xong, tháng 2 làm thóc. Gia Định rất nhiều cau. Ngạn ngữ nói “Gia Định nhất thóc nhì cau”, dân địa phương thường bỏ không thu, cau già lấy hạt bán cho người Tàu”. Cũng trong Phủ biên tạp lục Lê Quý Đôn có ghi lại lời một thương nhân người Bố Chính kể rằng ông ta từng vào buôn bán ở phủ Gia Định hơn mười chuyến (tức từ trước 1767), “thường đi vào tháng 9 tháng 10, về vào tháng 4 tháng 5, thuận gió không quá mười ngày đêm là tới. Mỗi chuyến đi thường qua cửa biển Nhật Lệ, trình trấn quan, vào cửa Eo, trình quan Tào vận, lĩnh giấy phép ra biển, đến xứ Vũng Tàu ở đầu cõi Gia Định là chỗ hải đảo, có dân cư, hạ buồm đậu vào, hỏi thăm nơi nào được mùa nơi nào mất mùa, biết nơi nào được mùa mới đến ở. Trên thì có cửa biển Cần Giờ, ở giữa thì vào cửa biển Soài Rạp (…). Đến chỗ nào cũng là thuyền buồm tụ họp, mặc cả thành giá thì người bán hàng tự sai người nhà khuân hàng xuống thuyền. Một quan tiền quý (360 đồng) mua được 16 đấu thóc, mỗi đấu bằng 3 bát bằng miệng của Hộ phiên, thành 30 bát quan đồng. Một quan tiền được 300 bát quan đồng. Giá thóc rẻ, chưa nơi nào được như thế. Gạo nếp gạo tẻ đều trắng dẻo, tôm cá rất to, béo ăn không hết, dân địa phương thường nấu qua rồi phơi khô để bán”, theo đó có thể thấy kinh tế nông nghiệp ở Gia Định đã mang tính chất sản xuất hàng hóa từ rất sớm.
Bắt đầu từ con số 40.000 hộ (khoảng trên dưới 200.000 người kể cả nam phụ lão ấu) năm 1698, vào năm 1775 cộng đồng Việt Nam ở ba dinh Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ (không kể trấn Hà Tiên) đã có khoảng 42.500 đinh với hơn 1.300 thôn chính thức chịu thuế của chính quyền, ngoài ra còn khoảng 45.000 quân là lực lượng thuộc binh, tạm binh trong đó dinh Phiên Trấn có 26.000 đinh với 650 thôn và hơn 9.000 quân. Lực lượng nhân lực tương đối đông đảo và điều kiện tự nhiên thuận lợi như vậy khiến đến nửa đầu thế kỷ XVIII vùng Nam Bộ trong đó có Gia Định đã trở thành một vựa lúa lớn của Đàng Trong. Phủ biên tạp lục cho biết trước khi quân Trịnh vào Thuận Hóa “sự buôn bán với Đồng Nai được thông suốt, gạo ở Phú Xuân 10 thưng tức 1 hộc (20 bát quan đồng) chỉ giá 3 tiền, có thể đủ cho một người ăn một tháng”.
Về tình hình chiếm hữu ruộng đất, ngoài các hình thức sở hữu ruộng đất của tư nhân (tư điền), của cộng đồng làng xã (công điền), của chùa chiền (tự điền), sở hữu của nhà nước (quan điền)… thông thường thời phong kiến, nhiều tài liệu cho biết ở Gia Định thế kỷ XVII – XVIII còn có một số hình thức sở hữu trung gian, ví dụ ruộng Châu Phê của Nguyễn Cửu Triêm được Hiển tông Phước Châu đích thân phê chuẩn cho làm quan điề
n ăn riêng, tức ruộng riêng nhưng được miễn thuế giống như ruộng nhà nước. Nhìn chung việc các tướng lĩnh, quan lại chiếm hữu ruộng đất với quy mô lớn đã khiến việc chiếm hữu ruộng đất ở vùng Nam Bộ thời Đàng Trong có những yếu tố của hình thức lãnh địa, theo đó người nông dân làm thuê cho địa chủ không những bị phụ thuộc về kinh tế mà còn ít nhiều về cả nhân thân. Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục cũng viết “Lại bắt trai gái người Mọi ở các đầu nguồn, đem bán làm nô tỳ (người đen tóc quăn là người Mọi thực thì giá 20 quan, hơi trắng thì giá chỉ hơn 10 quan), cho tự lấy nhau, sinh đẻ nuôi nấng thành người, cày ruộng làm nghề nghiệp, do đó mà thóc rất nhiều”.
Kinh tế thương nghiệp ở Gia Định thời Đàng Trong
Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn cho biết các điền chủ lớn vùng Gia Định thường bán thóc gạo ra Thuận Quảng, một số tư liệu khác cũng cho thấy từ cuối thế kỷ XVII vùng Gia Định – Hà Tiên đã là một vựa lúa lớn không chỉ ở Đàng Trong mà còn của cả vùng Đông Nam Á, có thể nói là có một nền nông nghiệp sản xuất lương thực hàng hóa tiền tư bản khá phát triển. Sử triều Nguyễn chép sau khi được tiếp nhận cho vào tỵ nạn chính trị ở Đàng Trong năm 1679, Dương Ngạn Địch đem binh thuyền vào cửa Soài Rạp tới đóng lại ở Mỹ Tho, Trần Thượng Xuyên đem binh thuyền vào cửa Cần Giờ tới đóng lại ở Biên Hòa. Sử chép những người Hoa này “vỡ đất hoang, lập phố xá, thuyền buôn của người Thanh và các nước Tây Dương, Nhật Bản, Đồ Bà (Java) đi lại tấp nập”, theo đó đủ biết từ cuối thế kỷ XVII vùng Gia Định đã có quan hệ ngoại thương khá rộng rãi với nước ngoài.
Năm 1757 chính quyền Đàng Trong định mức thuế cho thuyền buôn nước ngoài “Thuyền Thượng Hải mới tới nộp 3.000 quan, khi về nộp 300 quan, thuyền Quảng Đông mới tới nộp 3.000 quan, khi về nộp 300 quan, thuyền Phúc Kiến mới tới nộp 2.000 quan, khi về nộp 200 quan, thuyền Hải Đông mới tới nộp 500 quan, khi về nộp 50 quan, thuyền Tây Dương mới tới nộp 8.000 quan, khi về nộp 800 quan, thuyền Ma Cao, Nhật Bản mới tới nộp 4.000 quan, khi về nộp 400 quan, thuyền Xiêm La, Lữ Tống (Singapore) mới tới nộp 2.000 quan, khi về nộp 200 quan. Thuyền nào giấu giếm hàng hóa thì có tội, tịch thu cả thuyền lẫn hàng sung công. Thuyền không có hàng hóa thì không cho vào cửa biển”. Trước khi người Việt tiến vào đồng bằng Nam Bộ thì ở Quảng Nam đã có thương cảng Hội An rất phồn vinh và chắc chắn cũng phải có hệ thống thuế vụ khá hoàn chỉnh, nên bảng thuế nói trên rõ ràng đã được ban hành nhằm đáp ứng tình hình ngoại thương mới sau khi lãnh thổ Đàng Trong mở ra tới vùng Nam Bộ. Những tài liệu hiện có chưa cho phép xác định trong thời gian trước khi Tây Sơn khởi nghĩa thương cảng Gia Định đã tiếp đón bao nhiêu thuyền buôn nước ngoài tới buôn bán, song danh sách nói trên cũng cho người ta một ý niệm về các quốc gia và khu vực có quan hệ buôn bán với Gia Định đương thời. Hơn thế nữa, các thương cảng Cù lao Phố, Gia Định đương thời còn là các trạm trung chuyển quan trọng xuất khẩu không chỉ hàng hóa của Gia Định mà còn cả của Campuchia. Trong bài thơ Thu nhật khách trung tác sáng tác năm 1784 ở Campuchia, Trịnh Hoài Đức có viết “Kê ngân Đường cổ hoán lang đầu” (Bạc Miên chú Khách trút mua cau), theo đó đủ thấy thương nhân người Hoa lên Campuchia thu mua hạt cau khô chuyển về Gia Định rồi chở qua Trung Quốc. Đến cuối thời Đàng Trong, Gia Định đã là một đô thị – thương cảng lớn có hoạt động thương nghiệp khá phồn vinh, xuất khẩu không chỉ các sản phẩm nội địa của riêng vùng Nam Bộ. Đặc biệt, đời sống xã hội đa dân tộc tại địa phương đương thời còn góp phần làm hình thành ở đây các hệ thống hoạt động kinh tế theo tộc người trong đó nổi bật là hệ thống thương nghiệp của người Hoa, một hệ thống đóng vai trò quan trọng trong việc xác lập diện mạo kinh tế của cộng đồng Việt Nam ở địa phương. Theo những tư liệu hiện có thì có thể xác quyết hệ thống này đã hình thành ở Gia Định từ cuối thời Đàng Trong. Năm 1782 khi Hộ giá Phạm Ngạn của Tây Sơn bị tướng Trần Công Chương quân Hòa Nghĩa giết chết, Nguyễn Nhạc căm hận ra lệnh tàn sát tất cả người Hoa “không kể mới cũ” ở Sài Gòn để trả thù thì số người Hoa bị giết đã lên tới hàng vạn. Có thể nói thêm rằng chính lối hành động theo cảm tính mang tính chất hủy diệt xã hội này cũng là một lý do khiến Tây Sơn không tạo được cơ sở quần chúng của mình ở Nam Bộ trong đó có Gia Định – ngoài hàng tướng Đông Sơn Đỗ Nhàn Trập, hầu như không có người Nam Bộ nào khác được xếp vào hàng các danh tướng, đại tướng của Tây Sơn…
Tiền tệ ở Đàng Trong
Ngoài tiền giấy chỉ có trong đời Hồ Quý Ly, thời phong kiến Việt Nam dùng tiền kim loại hình tròn có lỗ vuông (trong vuông ngoài tròn – tượng trưng trời tròn đất vuông) như Trung Quốc. Tuy nhiên vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVIII do có kinh tế ngoại thương phát triển nên Đàng Trong thu hút khá nhiều loại tiền từ Đàng Ngoài cũng như Trung Quốc, Nhật Bản, Chân Lạp, thậm chí cả tiền tệ của một số nước phương Tây. Hệ thống tiền tệ thời Đàng Trong do đó rất phức tạp, ở đây chỉ giới thiệu đại lược.
Căn cứ vào Lịch đại cổ tiền đồ thuyết (Đinh Phúc Bảo biên soạn, Đái Bảo Bình tham gia giám định, Thượng Hải thư điếm, 1940, được Thượng Hải thư quán ảnh ấn tái bản năm 1985) thu thập 3.131 loại tiền cổ của nhiều nước như Triều Tiên (Lưu Cầu), Nhật Bản, An Nam (Việt Nam), có thể nói ngoài các loại tiền của nhà Mạc và nhà Lê
trung hưng như Quang Bảo thông bảo, Sùng Minh thông bảo, Nguyên Chính thông bảo, Khai Tiến thông bảo, Vĩnh Định thông bảo (đúc trong đời Mạc Phúc Nguyên), Nguyên Hòa thông bảo (đúc trong đời Lê Trang tông), Gia Thái thông bảo (đúc trong đời Lê Thế tông), Vĩnh Thọ thông bảo (đúc trong đời Lê Thần tông), Vĩnh Thịnh thông bảo, Bảo Thái thông bảo (đúc trong đời Lê Dụ tông) lưu hành ở Thuận Quảng thế kỷ XVI rồi Đàng Trong thế kỷ XVII – XVIII, ở Đàng Trong còn có các loại tiền Thái Bình thông bảo đúc từ đời Thái tổ Nguyễn Hoàng, An Pháp nguyên bảo đúc từ đời Túc tông Phước Thụ (về sau Đô đốc trấn Hà Tiên là Mạc Thiên Tích cũng được chúa Nguyễn cho đúc tiền này), Thiên Minh thông bảo (tiền kẽm) đúc trong đời Thế tông Phước Hoạt. Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục cho biết các chúa Nguyễn Đàng Trong có lệ khi mới lên ngôi thì theo kiểu tiền Thái Bình của nhà Mạc mà đúc tiền gián (tức mỗi quan có 600 đồng) nhỏ, trên có chữ Thái Bình. Hiện nay có tới hàng chục loại tiền Thái Bình bằng đồng và kẽm với nhiều mẫu mã, kích thước khác nhau. Vì Đàng Trong không có mỏ đồng, nên chính quyền Đàng Trong thế kỷ XVII – XVIII phải thu mua đồng đỏ mà các tàu buôn Nhật Bản chở tới, vào thế kỷ XVIII giá khoảng 45 quan/ 100 cân. Các tàu buôn từ Trung Quốc tới nếu có chở đồng đỏ cũng phải khai báo để chính quyền theo giá thu mua, mua không hết mới được bán cho dân gian. Mặc dù đã dùng nhiều biện pháp song vẫn không khắc phục được tình trạng thiếu nguyên liệu đúc tiền, nên các chúa Nguyễn lại cho mua các loại tiền cổ ở Trung Quốc để sử dụng. Tiền thời Đường có Khai Nguyên thông bảo, Càn Nguyên trọng bảo, các loại tiền Bắc Tống (960 – 1161), Nam Tống (1163 – 1282), tiền thời Nguyên (1271 – 1367), tiền thời Minh (1368 – 1643) số lượng không nhiều ở Trung Quốc nhưng cũng có mặt ở Đàng Trong, trong số này cũng có tiền của các nước Kim, Liêu. Các thương nhân Trung Quốc cũng đưa tới Đàng Trong các loại tiền thời Thanh như Thuận Trị, Khang Hy, Ung Chính, Càn Long…, thương nhân Nhật Bản thì đưa tới Đàng Trong tiền Khoan Vĩnh (Nhật Bản), tiền Thường Bình (Triều Tiên). Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn cũng viết “Từ năm Canh thân (1740) về trước, ở bốn trấn (Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Nam, Sơn Tây chung quanh Thăng Long) tiền ấy còn nhiều, từ năm Quý hợi (1743), Giáp tý (1744) về sau thì ít thấy. Năm Giáp ngọ (1774) quân nhà vua (tức quân Trịnh) vào Thuận Hóa, kê biên kho tàng thấy hơn 30 vạn quan xâu bằng mây, đều là tiền tốt, một đồng không lẫn, mới biết từ trước đều do thuyền buôn chở vào đấy (…). Họ Mạc đúc tiền gián nhỏ, có mấy chữ “Thái Bình an pháp” (gọi là tiền gián), cũng vì thuyền chở mà chạy cả vào Thuận Hóa”. Ngoài ra từ thế kỷ XVIII, các lái buôn Bồ Đào Nha đã đem nhiều loại tiền bằng bạc phương Tây sang Đàng Trong, đến 1746 một người Pháp tên là Pièrre de la Poivre lại đề nghị chúa Nguyễn cho lưu hành đồng tiền bằng bạc của Công ty Đông Ấn đúc. Họ đã đưa qua hai loại bạc, một loại hình tròn trị giá 780 tiền, một loại hình vuông trị giá 768 tiền, nhưng dân Việt không thích hai loại bạc này vì pha nhiều tạp chất. Nhìn chung ở Đàng Trong phổ biến lưu hành hai loại tiền đồng và kẽm với nhiều hiệu tiền của nhiều triều đại, nhiều quốc gia. Nếu so sánh thì tiền của nước ngoài nhiều hơn trong nước, tiền giả nhiều hơn tiền thật, tiền kẽm nhiều hơn tiền đồng.
Qua thế kỷ XVIII, vì Đàng Trong cấm mang tiền đồng xuất cảnh nên thương nhân người Hoa tới Đàng Trong hay phá tiền đồng đúc tượng Phật, lư hương… mang về Trung Quốc nấu chảy rồi pha thêm chì thiếc đúc tiền đồng giả đưa qua lại, tiền đồng cổ ngày một ít, nên năm 1725 lúc Túc tông Phước Thụ vừa lên ngôi đã phải cho đúc thêm tiền đồng. Từ đời Thế tông Phước Hoạt bắt đầu mua kẽm của Hà Lan để đúc tiền, “vành và nét chữ theo dáng tiền Tường Phù thời Tống”. Lúc mới đúc tiền rất cứng dày, nhưng về sau các nhà giàu có thần thế tranh nhau xin đúc thêm, gọi là tiền Thiên Minh thông bảo, trộn cả chì vào, tiền ngày càng nhỏ mỏng, có thể bẻ gãy được. Dân gian chê tiền xấu, mua bán không thông, thuyền buôn nước ngoài cũng không lấy. Nhà giàu chứa cất tiền không dùng được, không chịu bán thóc ra, vì thế giá gạo cao vọt. Lê Quý Đôn ghi nhận về tình hình lạm phát nói trên như sau “Họ Nguyễn trong khoảng ba năm Bính dần (1756), Đinh mão (1757), Mậu thân (1758) đúc tiền kẽm cộng 72.396 quan”, theo đó đủ biết số tiền kẽm được đúc ra còn nhiều hơn. Số lượng kẽm của Hòa Lan nhập vào quá lớn, việc mở lò đúc tiền là nguồn lợi, mà đúc tiền lại là công việc dễ dàng, ai cũng làm được. Theo P. Poivre, cứ một tạ kẽm giá 14 quan nếu đúc ra tiền thì được từ 40 đến 50 quan, nghĩa là vốn một lãi hai. Chúa Nguyễn lại thả nổi việc đúc tiền, cho tư nhân tự do mở lò, nên không kiểm soát được số lượng tiền kẽm lưu hành. Sai lầm này trong chính sách tài chính của chính quyền đã dẫn tới việc lạm phát tiền tệ ở cấp vĩ mô, và sự đình đốn của kinh tế thương nghiệp đã tác động tiêu cực tới các ngành sản xuất vật chất khác như nông nghiệp, thủ công nghiệp và khai thác nguồn lợi tự nhiên, phá hoại nền tảng kinh tế của xã hội Đàng Trong từ giữa thế kỷ XVIII. Cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ này đã dẫn tới các biến động xã hội to lớn mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn.
Theo Cao Tự Thanh, Một trăm câu hỏi đáp về lịch sử Sài Gòn trước 1802, Nxb. Văn hóa Sài Gòn, 2007
Last updated
Was this helpful?