Phần 02
Last updated
Was this helpful?
Last updated
Was this helpful?
Suy nghĩ về các nhà truyền giáo vào đầu thế kỷ 17,chúng tôi cho rằng có hai nơi mà họ muốn đến truyền đạo. Nơi thứ nhất, gần dinh thành mà quan lại trú đóng và nơi thứ hai là thị thành mà dân chúng đang sinh sống đông đúc để dễ tạo điều kiện thuận lợi cho việc giảng đạo. Họ hy vọng rằng khi ở gần những người có địa vị trong xã hội và quần chúng, họ sẽ có cơ hội truyền bá đạo Thiên Chúa Giáo khắp nơi cho cả hoàng tộc, các quan lại trong triều đình, cùng với dân chúng để cuối cùng sẽ gặt hái nhiều kết quả khả quan. Đây cũng một trong những lý do mà vào năm 1620, G.S. Francisco de Pina dọn lên thành phố Dinh Chiêm để giảng đạo. Lúc ấy, G.S. Pina cũng như các vị G.S. đồng đạo của ngài như G.S. Alexandre de Rhodes, dựa vào kiến thức phổ thông ở Âu Châu, họ có thể chỉ biết rằng Dinh Chiêm là một thành phố lớn, trực lệ trung ương mà thành Quảng Nam là tâm điểm và tiêu biểu cho thành phố này. Hơn nữa, thành trì này nằm bên bờ bắc sông Thu Bồn nên khi vẽ các bản đồ cổ, chúng tôi nghĩ họ chỉ chú trọng vào vị trí thành Dinh Chiêm mà thôi. Hiện giờ, chúng tôi không hiểu rõ kiến thức của họ về địa lý vùng nam Điện Bàn nữa. Vì chỉ sinh sống ở nam Điện Bàn trong một thời gian ngắn, có thể họ không thể nhận thức rằng trong một chu kỳ nào đó, sông ngòi trong miền nam Điện Bàn thay đổi đường hướng nước chảy hay trở nên khô cạn và có thể biến thành bãi bồi, thí dụ như trong thời kỳ 1640, tấm tranh Nhật Bản Chaya (Hình 19) cho thấy lòng sông Câu Lâu đã khô cạn và biến thành một bãi bồi to lớn; Những hiện tượng kể trên kéo dài theo thời gian rất lâu dài, có khi dài hơn cả một đời người nên chúng tôi không nghĩ các giáo sĩ tây phương đã có cơ hội thu thập những sự thay đổi này về địa lý. Nếu câu trả lời là không thì họ cũng không thể biết rằng địa phận thành phố Dinh Chiêm có thể kéo dài rất xa, bắt đầu từ thành Dinh Chiêm và cuối cùng gom trọn luôn cả gò nổi Câu Lâu mà địa phận của phần đất này nằm hai bên bờ bắc và nam sông Câu Lâu. Chúng tôi nghĩ chỉ có những người dân địa phương mộc mạc như gia đình tộc Nguyễn Văn sinh sống trong xã Câu Lâu mới hiểu rõ rằng xã Câu Lâu đã từng lệ thuộc vào thuộc Cần Húc mà Cần Húc chính là lỵ sở của Dinh Quảng Nam. Thật sự mà nói, nếu gia phả gia đình tộc Nguyễn Văn không nêu ra dữ kiện lịch sử này, không ai không thể ngờ rằng trong nhiều thế kỷ trước đây, địa phận thuộc Cần Húc lớn lao như thế. Nói tóm lại, nhờ gia phả tộc Nguyễn Văn, bây giở chúng tôi mới nhận thấy rằng phạm vi thành phố Dinh Chiêm vào đầu thế kỷ 17 là một thành phố đồ sộ; dân đông với phạm vi bắt đầu từ phía tây nam miền nam Điện Bàn, kéo dài về hướng đông bắc bao gồm xã Thanh Chiêm và xã Cần Húc; chạy xuống nam về hướng xã Câu Lâu và kết thúc bên bờ nam sông Câu Lâu.
Kết Luận
Đối với chúng tôi, địa bạ Quảng Nam (1812) cùng với William Dampier đích thực đã minh định rằng xã Câu Lâu và cả thuộc Cần Húc nằm cả hai bên bờ sông Câu Lâu. Một lần nữa dựa vào địa bạ, chúng tôi có thể kết luận rằng địa phận của nó bên bờ nam sông Câu Lâu không sâu rộng cho lắm, chỉ vừa “hai đoạn Thiên Lý” nhưng tương đối trải dài dọc theo bờ nam sông Câu Lâu với một diện tích khoảng 10-15 ha. Chúng tôi nghĩ có thể trước đây, địa điểm bên bờ sông nam Câu Lâu là một bến đò.[121]
Dựa vào gia phả tộc Nguyễn Văn, chúng tôi nhận thấy rằng vào đầu thế kỷ 17 địa phận xã Câu Lâu tương đối rộng lớn và nằm hai bên bờ sông Câu Lâu. Vì thế, xã Cần Húc nên được gọi là thuộc Cần Húc cho đúng ý nghĩa vì, dựa theo gia phả tộc Nguyễn Văn, hai xã Câu Lâu và Cần Húc xưa kia trực lệ vào thuộc Cần Húc. Chúng tôi nghĩ rằng giả thiết này có vẻ hợp lý với sự suy đoán của Nguyễn Sinh Duy đã từng cho rằng Cần Húc trong tiếng Chăm có nghĩa là “lò đúc đồng”. Có lẽ thuộc này bắt đầu từ chúa Sãi khi ngài chuẩn bị tách rời tầm ảnh hưởng của chúa Trịnh ở phương bắc, cho đến đời chúa Hiền, khi dự án tối mật khổng lồ để chế tạo súng thần công đúc đồng đã thành công. Thành quả của cuộc nam tiến chiếm đóng thêm lãnh thổ của Chiêm Thành và Chân Lạp, nếu không nhờ sức mạnh vô bờ của những khẩu thần công này không thể thực hiện được.
Tuy nhiên, đã là thuộc Cần Húc thì phải lệ vào huyện Duy Xuyên vì thuộc đúc đồng Cần Húc, theo chúng tôi nghĩ, chỉ bao gồm các xã đúc đồng trong huyện Duy Xuyên mà thôi. Vì vậy, xã Cần Húc và ngay cả thuộc Cần Húc không thể bị thay đổi huyện lệ từ huyện Duy Xuyên qua một huyện khác như Diên Khánh được. Đây là lý do mà chúng ta nhận ra rằng trong Phủ Biên Tạp Lục, Lê Quí Đôn vào năm 1776 đã từng tường trình rằng xã Cần Húc vẫn lệ thuộc vào huyện Duy Xuyên,[122] trong khi các xã chung quanh như Câu Lâu, Mỹ Xuyên Đông, Mỹ Xuyên Tây, Gia Tịnh, Lang Xuyến, v.v.. nằm dọc theo các bờ sông Câu Lâu, Bà Rén hay Dưỡng Chân – ngay biên giới giữa huyện Duy Xuyên và huyện Diên Khánh – đều lệ vào huyện Diên Khánh chứ không phải huyện Duy Xuyên nữa. Lúc này (1776), khi Lê Quí Đôn xuất bản quyển Phủ Biên Tạp Lục, thuộc Cần Húc có lẽ đang trên con đường bị giải tán. Vì vậy, chúng ta có thể nhận ra rằng một thành viên trong thuộc Cần Húc, như xã Câu Lâu bắt đầu tách rời ra khỏi huyện Duy Xuyên trở về với huyện Diên Khánh. Lý do tại sao bị giải tán cần được tìm hiểu thêm. Nhưng Lê Quí Đôn cũng cho biết thêm rằng xã Cần Húc, lúc nào cũng vậy, nằm lẻ loi sát bên bờ sông Cầu Mống, giữa các xã thuộc huyện Diên Khánh, nhưng lại lệ thuộc về huyện Duy Xuyên ở phía nam. Lý do là vì dưới các triều Nguyễn, chúng tôi nghĩ, Cần Húc đóng vai trò rất quan trọng trong việc chế tạo súng thần công đúc bằng đồng để chống lại chúa Trịnh. Chỉ sau khi vua Gia Long thống nhất đất nước, vào năm 1806, chúng tôi cho rằng ngài hoàn toàn giải tán thuộc Cần Húc và đổi tên xã Cần Húc ra xã Văn Đông.[123] Tuy nhiên, cho đến bây giờ, ngoài gia phả tộc Nguyễn Văn, chúng tôi vẫn chưa tìm ra thêm chứng cớ lịch sử nào để chứng minh rằng thuộc Cần Húc đã từng tồn tại dưới triều các chúa Nguyễn. Và vì thế, những lời bàn luận mà chúng tôi vừa nêu lên về thuộc Cần Húc đều là giả thuyết cả.
Chúng tôi nghĩ địa phận thành phố Dinh Chiêm tương đối rộng và dài bắt đầu từ thành Dinh Chiêm, bên cạnh tuyến đường Thiên Lý và Chợ Củi, chạy dài về hướng đông bắc trên đường phố mà sau này gọi là xã Thanh Chiêm; sau đó đến xã Văn Đông và xã Câu Lâu là một gò nổi rất lớn mà địa giới bao gồm cả hai bên bờ bắc-nam sông Câu Lâu. Diện tích tổng cộng của thuộc Cần Húc vào đầu thế kỷ 17 bao gồm thành Dinh Chiêm, xã Thanh Chiêm, xã Cần Húc, và xã Câu Lâu vào khoảng 335 ha dựa theo Địa Bạ Quảng Nam (1812) như được vẽ và tô màu trong Hình 13.
Phần 3
Sự Thay Đổi huyện lệ của Các Xã giữa Huyện Duy Xuyên và Huyện Diên Khánh
Hình 14 cho thấy một số làng xã thuộc về huyện Duy Xuyên và Diên Khánh. Vào đầu thế kỷ 17, huyện Diên Khánh rất rộng bao gồm không những miền nam Điện Bàn mà còn cả Hội An và Đà Nẳng. Riêng huyện Duy Xuyên, nó là một huyện rất cổ thuộc về phủ Thăng Hoa và được đổi tên từ Hy Giang vào năm 1600.[124]
Còn huyện Duy Xuyên bao gồm 10 xã, 3 thôn sau đây: La Đáp Đông, La Đáp Tây, La Đáp Trung, Chính Phố, Trà Long, Phổ Thị, Hà Hạm, Cành Mít, Xuân Phú, Đường Mông, Nhiêu Phu, Đông An và Nội Phủ Chí Ly.[127] Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng, chúng tôi nghi ngờ danh sách các tên trong huyện Duy Xuyên từ Lê Quí Đôn có gì sai lạc vì theo truyền thống từ 1471, huyện Duy Xuyên mà ngày xưa được gọi là huyện Hy Giang nên tên tuổi của các xã trong huyện đều tồn tại trước 1776 cho đến năm 1812, khi địa bạ Quảng Nam được khởi xướng. Điều mà chúng tôi muốn nói là cái danh sách xã mà Lê Quí Đôn cung cấp trong Phủ Biên Tạp Lục, ngoài hai xã La Tháp Đông/Tây, không giống như trong sách địa bạ Quảng Nam (1812). Trong địa bạ viết từ đời vua Gia Long (1812) huyện Duy Xuyên bao gồm các thôn xã như sau: An Dưỡng, An Thành, Bảo Sơn, Câu Lâu, Cây Lim thôn, Chiêm Sơn Phụ Lũy, Gia Tịnh phường, Hương Sơn, La Tháp Đông, La Tháp Tây, Lang Châu, Mậu Hòa, Mậu Hòa Phụ Lũy, Mỹ Lộc, Mỹ Xuyên Đông Giáp, Mỹ Xuyên Tây Giáp, Ngân Châu, Ngọc Sơn, Phú An, Phú Đa, Phú Lộc, Phú Nham Đông, Phú Nham Tây, Phú Sơn Chính, Phú Vinh thôn, Phú Vinh, Phụ Huyện Đông An thôn, Tây An, Thạch Bàn, Thu Bồn, Trà Kiệu Đông Trà Kiệu Tây và Vân Quất.[128]
Trong Hình 14, khi chú ý một chút, chúng ta sẽ nhận thấy rằng vào năm 1776 có một số xã mà trong quá khứ thường lệ thuộc huyện Duy Xuyên như Mỹ Xuyên Đông, Mỹ Xuyên Tây, Bàn Thạch, Câu Lâu, Gia Tịnh, Lang Xuyến (Lang Châu, 1812), Vân Quật và Thi Lãi nay lại lệ vào huyện Diên Khánh. Điều đáng ngạc nhiên là các xã này nằm dọc theo các bờ sông Thu Bồn ở phương bắc, sông Ba Rén ở phương nam và cả sông Dưỡng Chân chảy xuyên qua huyện Duy Xuyên từ nam lên bắc bao bọc bên ngoài huyện Duy Xuyên. Kể từ 1471, những xã nhắc đến trên đều là những làng xã rường cột trong huyện Duy Xuyên. Nhưng vì một lý do nào đó mà chúng tôi sẽ tìm hiểu sau và tìm ra những câu trả lời xác đáng, trong một khoảng thời gian nào đó, chúng lại có sự thay đổi trong huyện lệ. Khi huyện Diên Khánh sở hữu chúng có nghĩa là địa phận huyện Duy Xuyên bị ép nhỏ hẹp lại nhất nhiều. Tuy nhiên, Lê Quí Đôn cho biết vào năm 1776, chỉ riêng xã Cần Húc (lúc này vẫn còn là lỵ sở của Dinh Quảng Nam) nằm một cách lẻ loi giữa địa bàn huyện Diên Khánh, phủ Điện Bàn, bên bờ bắc sông Cầu Mống, nhưng vẫn lệ thuộc huyện Duy Xuyên ở hướng nam.[129]
Không bao lâu sau, vua Gia Long thống nhất đất nước vào năm 1802, một trong những công việc khẩn cấp cần làm là thống kê điền thổ toàn quốc kể cả Dinh Quảng Nam. Dựa theo Nguyễn Đình Đầu, thống kê ruộng đất trong tỉnh Quảng Nam đã được thực hiện vào năm 1812.[130] Trước đó không lâu, vào năm 1806, Cần Húc nay được đổi tên thành Văn Đông[131] và lệ vào huyện Diên Khánh (1812).[132] Ngược lại, các xã nằm bên bờ các sông được nhắc đến như trên được chuyển về lại với huyện Duy Xuyên như cũ, thí dụ như xã Câu Lâu, xã Mỹ Xuyên Đông, Mỹ Xuyên Tây, v.v…[133] Đây là một điều rất lạ lùng đã xảy ra trong lịch sử. Có lẽ cuộc nội chiến giữa Đàng Trong, Đàng Ngoài và Tây Sơn trong vòng 30 năm đã khiến có sự trễ nải trong công việc cập nhật địa bạ cùa các huyện xã trong toàn quốc cũng như ở Dinh Quảng Nam.
Nói tóm lại, những dữ kiện này cho thấy không chỉ xã Cần Húc là bị thay đổi huyện lệ mà địa giới các xã nằm giữa biên giới hai huyện Duy Xuyên và Diên Khánh cũng như vậy, nhưng chiều hướng chỉ đi trái ngược với nhau mà thôi. Vậy thì chúng ta nên tự thắc mắc là lý do gì mà dưới thời các chúa Nguyễn, Cần Húc thuộc huyện Duy Xuyên cho đến 1776, nhưng đến đời vua Gia Long lại xảy ra chuyện Cần Húc (Văn Đông) bị sát nhập vào với huyện Diên Khánh.
Chúng tôi suy nghĩ và đưa ra giả thuyết rằng chính sự thay đổi của các dòng sông như Chợ Củi Dưỡng Chân, Câu Lâu và (hay) Cầu Mống đã gây ra sự biến chuyển và thay đổi trong hành chánh của các xã – không chỉ có xã Cần Húc là bị ảnh hưởng không mà thôi – nằm sát biên giới giữa hai huyện Duy Xuyên và Diên Khánh. Vì thế, chúng tôi sẽ nghiên cứu, học hỏi địa lý và địa hình các con sông ở miền nam Điện Bàn qua quá trình lịch sử Đàng Trong từ đời chúa Nguyễn Hoàng cho đến Pháp thuộc. Với các bằng chứng từ sách vở lịch sử từ nhiều thế hệ trước cho đến nay và bản đồ cổ xưa từ đời Hồng Đức cũng như các nhà vẽ bản đồ Âu Châu và quân đội Hoa Kỳ, chúng tôi hy vọng sẽ tìm ra câu trả lời xác đáng.
Phân Tích Sự Thay Đổi Địa Hình của Sông Ngòi ở Miền Nam Điện Bàn Trong 400 Trăm Năm Lịch Sử
Hình 15 cũng cho thấy trước khi thành sông Chợ Củi, sông Thu Bồn tách rẻ ra một nhánh sông nhân tạo lấy tên là Vĩnh Điện chảy về hướng đông bắc. Nó được đào ra ngay thôn Câu Nhi trên sông Thu Bồn chảy thẳng lên bắc-đông bắc và cuối cùng nối liền sông Cẩm Lệ ở Đà Nẳng, rồi đổ ra Cửa Hàn. Dưới đời vua Minh Mạng, nó đã được nới rộng hai lần (1822 và 1826). Điều này nói lên tầng lớp quan trọng của con sông nhân tạo này trong hệ thống sông ngòi Thu Bồn ở vùng Điện Bàn và Hội An trong lịch sử nhà Nguyễn.
Dựa theo Đại Việt Nhất Thống Chí, dịch ra và xuất bản năm 1964, dưới đời vua Gia Long, nhánh sông Chợ Củi (tức là sông Thu Bồn; ngay địa điểm này còn gọi là sông Chợ Cối[137]) thường thường còn gọi là sông nhỏ, có lượng nước thấp, nhưng sau khi vua Minh Mạng mở rộng sông Vĩnh Điện, nó trở thành sông lớn. Vì thế, đổi lại, con sông còn lại chảy song song với sông Chợ Củi là sông Bà Rén mà một trong hai chi nhánh chính của nó gọi là sông Dưỡng Chân chảy ngang qua, cắt huyện Duy Xuyên về hướng nam-bắc xưa kia xưa kia là sông lớn, nay biến thành thành sông nhỏ bắt đầu dưới đời vua Minh Mạng vì lượng nước đem đến từ nó ít đi.[138] Sau khi đọc qua những lời giải thích trong Đại Việt Nhất Thống Chí, chúng tôi có cảm tưởng rằng các sử gia trong đời Minh Mạng có lẽ muốn cho các thế hệ sau biết sự lệ thuộc của sông ngòi miền nam Điện Bàn vào sông Vĩnh Điện, sau khi nó được nới rộng. Từ những lời giải thích này, chúng ta có thể nhận thức rằng một khi sông Chợ Củi biến thành sông nhỏ hay lớn, sông Câu Lâu cũng theo vậy mà thôi vì hai sông tuy hai nhưng là một nối liền với nhau. Tương tự như thế, dựa theo Đại Việt Nhất Thống Chí, diện mạo của sông Dưỡng Chân lại trái ngược với sông Chợ Củi, nhưng tùy thuộc vào số lượng nước của sông Chợ Củi; khi sông Chợ Củi nhỏ đi, nó lại bành trướng và ngược lại. Vì sông Dưỡng Chân hầu như nối liền với sông Cầu Mống ở phía bắc, chúng tôi cũng có thể đặt thêm giả thuyết rằng mức độ nông hay sâu của sông Cầu Mống tùy thuộc vào diện mạo của sông Dưỡng Chân, đó là, khi sông Dưỡng Chân lớn mạnh, nó cũng lớn mạnh, và ngược lại.
Trải qua hơn 100 năm sau, vào năm 1958, khi Phạm Đình Khiêm, viếng thăm Thanh Chiêm, ông cho biết nay sông Chợ Củi nay trở lại thành sông nhỏ trở lại.[139] Những điều qua lại này cho thấy mặc dù lúc đầu sông nhân tạo Vĩnh Điện được nới rộng sâu hơn có thể đã thay đổi địa lý và chiều hướng nước chảy của các dòng sông lớn vùng nam Điện Bàn, nhưng sự ảnh hưởng của nó có giới hạn trong vòng hơn một trăm năm sau. Về sau này, có lẽ khi phù sa bắt đầu bồi đắp thêm dần theo thời gian, nó cạn dần; nhất là khi nó không được tu bổ, đào sâu thêm nữa. Vì thế ảnh hưởng của nó đối với hai nhánh sông chính Chợ Củi và Dưỡng Chân hầu như không còn nữa.
Trong phần trình bày “Địa Phận Châu Thổ Cần Húc” trước đó, từ hình chụp vệ tinh, chúng tôi đã khám phá ra rằng sông Vĩnh Điện và sông Cầu Mống đã được nối liền với nhau nhiều thế kỷ trước, và vì vậy, dần dần châu thổ Cần Húc được thành hình từ sự bồi đắp của phù sa từ sông Vĩnh Điện đổ ra sông Cầu Mống (Hãy xem Hình 9,10 và 11). Điều này được phản ảnh qua gia phả tộc Nguyễn Văn và hình ảnh vệ tinh. Vì thế, chúng tôi cho rằng Cần Húc thật sự là một châu thổ và cũng là lỵ sở của Dinh Quảng Nam vào năm 1602; Điều này cho thấy sông nhân tạo Vĩnh Điện không phải bắt đầu được đào dưới triều vua Minh Mạng mà đã ra đời cả mấy trăm năm trước đó; có thể bắt đầu dưới các thời đại nước Chiêm Thành.
Nhưng suy nghĩ kỹ hơn, chúng tôi nhận thấy rằng nối liền sông Vĩnh Điện với sông Cầu Mống là một lầm lỗi là vì mục đích đào sông Vĩnh Điện, theo chúng tôi nghĩ, là để quân bình số lượng nước giữa hai sông lớn chảy song song là sông Thu Bồn ở phía bắc và sông Bà Rén ở phía nam. Nói một cách khác, trong mùa nước lụt, nó sẽ rút bớt nước lũ từ sông Thu Bồn và mang ra Đà Nẳng đề rồi đổ ra cửa Hàn. Vì thế, nạn ngập lụt, sạt lở sẽ không xảy ra nữa hay sẽ bớt đi. Ngược lại, dựa theo Đại Việt Nhất Thống Chí, trong mùa khô cạn, con sông nhân tạo này tạo ra một lực có thể rút bớt nước từ sông Ba Rén để cung cấp thêm cho sông Thu Bồn. Nhưng vì một lý do nào đó, chúa Nguyễn, hay xưa hơn nữa từ đời Chiêm Thành, lại tiếp nối sông Vĩnh Điện vào với sông Cầu Mống bằng một dòng sông cổ. Sau nhiều năm, phù sa từ dòng sông cổ đã tạo ra sự bế tắc của sông Cầu Mống vì sau nhiều năm, vì có quá nhiều lớp trầm tích lắng đọng tại cửa sông Cầu Mống và dòng sông cổ, nơi châu thổ (delta) Cần Húc đã được tạo thành (hãy xem lại Hình 11). Tuy nhiên, qua nhiều năm tháng, chúng tôi nghĩ bãi bồi Cần Húc không những khiến cho dòng sông cổ bị bế tắc mà còn giảm số lượng nước chảy qua sông Cầu Mống. Chỉ tưởng tượng chúng ta có thể hình dung ra trong mùa lụt lội, dưới đời các chúa Nguyễn, vì sông Cầu Mống và Câu Lâu là hai dòng sông chính mang nước ra cửa Đại, một khi sông Cầu Mống bị bế tắc, sông Câu Lâu sẽ gánh hết số lượng nước rất lớn. Chỉ cần nghĩ đến điều này thôi, chúng tôi đã hình dung ra được cảnh lụt lội khắp nơi kể cả các miền thượng lưu lẫn hạ lưu của sông ngòi miền nam Điện Bàn.