Phần 01
Tác Giả: Nguyễn Đình Nam
Ngày 24 Tháng 10 Năm 2023
Trong quá trình nghiên cứu của chúng tôi đến nay, chúng tôi vẫn dành hết thì giờ tìm hiểu cuộc đời ngắn ngủi của Giáo Sĩ (G.S.) Francisco de Pina (1585-1625)[1], một Linh Mục dòng Tên[2] mà chúng tôi rất kính ngưỡng. Hiện nay, ai ai cũng công nhận rằng ngài là người tiên phong trong việc phát triển chữ Quốc Ngữ. Đây là một công trình rất vĩ đại mà ngài đã dành cho chúng tôi, những con dân người Việt. Vì thế, bài viết này ngoài việc tìm hiểu về cuộc sống của ngài ở ngoại thành Dinh Chiêm (Dinciam) bắt đầu từ năm 1620, chúng tôi muốn chứng tỏ sự cảm ơn từ đáy lòng của chúng tôi đối với ngài.
Trong 8 năm tận tụy ở Đàng Trong – từ 1617 đến 1625, đi theo lời kêu gọi của Thượng Đế, vị G.S. quí mến này đã hy sinh cả cuộc đời để phục vụ người dân tộc Việt Nam trong nhiều địa phương khác nhau như Hội An ở Dinh Quảng Nam[3], lúc ngài bắt đầu trên con đường giảng đạo ở Đàng Trong, cho đến tận chân trời xa tại Nước Mặn ở Dinh Qui Nhơn. Trước khi mất, ngài dành rất nhiều thì giờ phục vụ giáo dân tại thành phố Dinh Chiêm, cách Hội An khoảng 9 km về phía tây.
Tuy hiện tại, chúng tôi có thể tìm hiểu rất nhiều về Huế và Hội An từ sách vở và tài liệu trong mạng và thư viện, nhưng lại không biết gì về hai nơi như Nước Mặn và Dinh Chiêm mà ngài thường lui tới. Vì thế, bài nghiên cứu này chúng tôi sẽ dành riêng để thỏa mãn sự tò mò ham học hỏi của chúng tôi về thành phố Dinh Chiêm, một nơi mà G.S. Pina dành rất nhiều thì giờ quí báu của ngài trong việc phát triển chữ Quốc Ngữ bằng cách dùng ký âm Việt chuyển qua những mẫu tự chữ Bồ Đào Nha. Dựa theo lịch sử, tại đây, ngài cũng đã thành lập một nhà thờ và mở trường dạy học tiếng Việt đầu tiên ở Đàng Trong cho hai vị giáo sĩ trẻ Alexandre de Rhodes (1593 -1661) và Antonio Fontes (1592 – sau 1655) khi họ mới đặt chân lên Đàng Trong cuối năm 1624.
Bối Cảnh
Ở đầu thế kỷ 17, nền kinh tế Đàng Trong đang phát triển rất mạnh mẽ do sự buôn bán, trao đổi hàng hoá giữa ba quốc gia Nhật Bản, Trung Quốc và Đàng Trong. Vì Nhà Minh ở Trung Quốc cắt đứt bang giao và buôn bán với Nhật Bản, nhưng lại rất cần kim loại hiếm như vàng và bạc trong tiền tệ. Ngược lại, Nhật Bản rất ương chuộng những tấm lụa mềm mại của Trung Quốc và đồ gốm, gỗ thơm của Đàng Trong nên thương nhân cả ba quốc gia không ngần ngại thành lập Hội An, ở Đàng Trong thành một nơi trao đổi hàng hóa. Mỗi năm thuyền buồm theo mùa gió bấc thổi xuống từ phía đông-bắc, các thuyền buôn Trung Quốc và Nhật Bản lần lượt tụ họp ở Hội An trong vòng bốn tháng[4]. Trong số các nước Âu Châu, trong thế kỷ 16, Bồ Đào Nha hầu như chiếm độc quyền buôn bán ở Á Châu. Riêng ở Đàng Trong, Chúa Nguyễn và dân chúng Đàng Trong rất ưa chuộc sản phẩm của họ, như kim may vá, áo sơ-mi, v.v… Quan trọng hơn nữa, Đàng Trong rất cần các khẩu súng thần công đúc bằng đồng từ quốc gia này. Vì thế, giữa Đàng Trong và Bồ Đào Nha cũng đã bang giao rất mật thiết.
Dưới đời chúa Nguyễn Hoàng (1525-1613), Dinh Quảng Nam[5] là một trong hai dinh trấn ở Đàng Trong – Dinh trấn thứ nhất là Dinh Thuận Hóa. Nơi đây, một cơ sở hành chánh trung ương đã được gầy dựng vào đầu thế kỷ 17 với công việc chính là quản lý và thu thuế từ các thuyền bè tụ họp buôn bán, trao đổi hàng hóa hàng năm tại thương cảng Hội An. Dựa theo phong tục chính quyền Đàng Trong, các thương nhân ngoại quốc tạm dừng chân tại Hội An; sau đó họ theo phép lịch sự đều phải ghé thăm Trấn Thủ Quan đóng đô tại thành Dinh Chiêm, cách Hội An không xa. Để được dễ dãi trong công việc buôn bán, họ thường gửi gấm lễ tiến[6] từ đất nước họ. Riêng các thương gia Nhật Bản còn đóng vai trò tùy viên ngoại giao cho Mạc Phủ Nhật Bản. Đôi lúc, họ mang thư từ qua lại giữa Mạc Phủ và Chúa Nguyễn. Thường thường tàu bè ngoại quốc mỗi năm dừng chân tại Cù Lao Chàm để đăng ký và chuẩn bị đóng thuế nhập cảnh cho Đàng Trong. Thuế má hàng hóa đều tùy thuộc vào chiều dài của chiếc thuyền buôn. Trong khoảng thời gian (1600-1635), các thương nhân từ Nhật Bản phải mang theo giấy phép thông hành gọi là Châu Ấn Trạng mà chính quyền Nhật Bản cung cấp trước khi nhập cảnh vào Đàng Trong. Trong những năm chiến sự giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài (1627-1672), Dinh Chiêm còn đóng vai trò căn cứ quân sự trừ bị cho quân đội Đàng Trong. Vì thế, chúng tôi nghĩ thành trì Dinh Chiêm rất rộng lớn bao gồm những nơi quân đội bộ binh lẫn thủy quân tập dượt, bến thuyền bè, chuồng ngựa, voi, kho vũ khí, v.v…
Đồng hành với các thuyền buôn Bồ Đào Nha đến Đàng Trong là các giáo sĩ nhà dòng mà nổi tiếng nhất là dòng Tên lúc ấy. Trong khoảng thời gian này, họ có cơ sở vững chắc tại bán đảo Macao ở Trung Quốc. Theo chúng tôi nhận thấy, mặc dù, từ những ảnh hưởng lan tràn đến từ Nhật Bản trong việc cấm đạo Ki Tô Giáo bắt đầu vào năm 1614, Chúa Nguyễn có lẽ lúc ban đầu cũng đã e dè sự ảnh hưởng của Ki tô giáo đối với xã hội Đàng Trong, nhưng sự đe dọa về mặt quân sự của Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài khiến Chúa Nguyễn không có sự lựa chọn nào khác, nên đã đồng ý, cho phép dòng Tên bắt đầu hoạt động kể từ năm 1615.
Dinh Chiêm Trong Lịch Sử
Vào đầu thế kỷ 17, dưới quyền lãnh đạo của Chúa Nguyễn Hoàng (1525-1613), Hội An là một thương cảng rất thịnh hành ở vùng Đông Nam Á, đó là không kể các thương cảng nổi tiếng như Manila của Phi Luật Tân, Ayutthaya của Siam (Thái Lan), hay Longvek của Cam Bốt vào thời ấy. Để thâu thập ngoại tệ từ giao thương với các quốc gia trong việc canh tân đất nước, nhất là chuẩn bị bảo vệ lãnh thổ dưới mối đe dọa của Chúa Trịnh ở phương bắc, vào năm 1602, Chúa Nguyễn Hoàng bắt đầu đổi tên Trấn Quảng Nam[7] từ đời nhà Hậu Lê thành Dinh Quảng Nam mà lỵ sở của nó ở xã Cần Húc , thuộc về huyện Duy Xuyên[8] (về sau, năm 1806, xã Cần Húc được đổi tên thành xã Văn Đông, thuộc huyện Diên Khánh)[9] và trao Dinh Quảng Nam cho Công Tử Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635) chức Trấn Thủ Quan nắm giữ quân quyền – Lúc này, Dinh Quảng Nam bao gồm 3 phủ[10] [11]: Thăng Hoa[12] ,Tư Nghĩa (còn có tên Tư Ngãi; nay Quảng Ngãi) và Hoài Nhân (còn có tên Hoài Nhơn; nay Bình Định)[13]. Điều này cho thấy, vào đầu thế kỷ 17, lãnh thổ Dinh Quảng Nam kéo dài từ bờ nam Thu Bồn[14], chạy xuống Quảng Ngãi, xuống tận Bình Định hiện nay. Trước đó, vào năm 1600, ngài trích huyện Điện Bàn bao gồm 5 xã: Tân Phúc, An Nông, Hòa Vinh, Diên Khánh và Phú Châu từ phủ Triệu Phong của Dinh Thuận Hóa và cập nhật nó thành phủ Điện Bàn, sau đó sát nhập phủ mới này vào với Trấn Quảng Nam.[15]
Dinh Quảng Nam thường được dân gian gọi là Dinh Chiêm [16] [17] [18]. Trong lịch sử Đàng Trong, “Dinh”[19] đồng nghĩa với “Xứ”, “Thừa Tuyên”, “Trấn” và đồng cấp với “Tỉnh” sau này. Tuy nhiên, cái tên “Dinh Quảng Nam” hay “Dinh Chiêm” ngày xưa cũng biểu hiện thành phố trực thuộc kinh sư (Dinh Cát hay Huế)[20], nơi Trấn Thủ Quan làm việc vào thời ấy. Đối với người tây phương đến giảng đạo, nhà thám hiểm hay buôn bán vào đầu thế kỷ 17, họ chỉ hiểu cái tên Dinh Chiêm theo ý nghĩa thứ hai này.
Lúc ban đầu, Chúa Nguyễn Hoàng đặt lỵ sở Dinh Chiêm ở Cần Húc (1602). Cho đến năm 1776, Lê Quí Đôn trong Phủ Biên Tạp Lục vẫn cho biết Cần Húc vẫn còn là lỵ sở của Dinh Quảng Nam.[21] Tuy nhiên, Lê Quang Định viết trong trong Hoàng Việt Nhất Thống Địa Dư Chí (1806) rằng đến đời vua Gia Long, lỵ sở Dinh Quảng Nam đã dời về xã Thanh Chiêm.[22] [23] Đồng thời, Cần Húc xưa kia được đổi tên thành Văn Đông.[24] [25] Ngoài ra, Đại Nam Nhất Thống Chí 2006 còn cho biết thêm rằng Cần Húc “tiếp giáp xã Thanh Chiêm”.[26] Câu này nói lên rằng Cần Húc và xã Thanh Chiêm khác nhau hoàn toàn tuy nằm kế cận nhau. Nhưng trong mục “Thành Trì”, Đại Nam Nhất Thống Chí lại viết “Đầu bản triều dựng dinh trấn ở xã Thanh Chiêm thuộc huyện Diên Phước.”[27] Thoạt đầu, hai câu này có vẻ mâu thuẫn với nhau. Nhưng sau khi suy nghĩ kỹ, từ cái tên “Diên Phước” nói lên rằng câu này được viết sau 1822, vì trong năm đó, vua Minh Mạng (1792-1841) mới bắt đầu đổi tên huyện Diên Khánh ra Diên Phước. Điều này có nghĩa là sau 1822, triều đình vua Minh Mạng công nhận lỵ sở của Dinh Quảng Nam, như đời vua Gia Long trước đây, ở xã Thanh Chiêm thuộc huyện Diên Phước.
Một số nhà nghiên cứu hiện đại cho rằng vào đầu thế kỷ 17, chúa Nguyễn Hoàng dời lỵ sở Dinh Chiêm khỏi Cần Húc, nhưng họ vẫn thắc mắc về vị trí mới của ly sở Dinh Chiêm thay thế cho Cần Húc. Kể từ 2002 cho đến nay, trong cả hai lần hội thảo, các học giả đã có nhiều bàn cãi sôi nổi về câu trả lời[28]. Thêm vào nữa, trong Đại Nam Nhất Thống Chí 2006 có nhắc đến Cần Húc và viết rằng xã này đã về sau được đổi tên ra là Văn Đông[29], nhưng lại thêm chi tiết là xã Văn Đông thuộc về Huyện Diên Khánh (sau đổi thành Diên Phước)[30] chứ không phải là Huyện Duy Xuyên nữa. Vậy thì Cần Húc (Văn Đông) đặt vị trí ở đâu, bao giờ thì lỵ sở Dinh Quảng Nam bị dời đổi và quan trọng hơn nữa là vì lý do gì?
Nhưng đối với nhà nghiên cứu như Phạm Đình Khiêm, Phan Khoang, Phan Du và Li Tana, họ cho rằng xã Cần Húc (Văn Đông) về sau này có tên mới là xã Thanh Chiêm[31]. Nhưng một số học giả khác như Ngô Văn Minh và Lê Duy Anh, lại cho rằng Dinh Chiêm luôn luôn trú ngụ tại xã Cần Húc, Huyện Duy Xuyên, nay thuộc xã Mỹ Xuyên và không hề bị dời về xã Thanh Chiêm bao giờ. Ngoài ra, họ cho rằng địa điểm của xã Cần Húc luôn nằm về phía nam sông Câu Lâu thuộc về xã Mỹ Xuyên hay Thị Trấn Nam Phước hiện nay.[32] Cũng có một số nhà nghiên cứu, như Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Quốc Thắng, Nguyễn Phước Tương, Trương Quốc Bình, Nguyễn Thiếu Dũng, Huỳnh Công Bá[33] và Nguyễn Đình Đầu có một suy nghĩ khác và cho rằng, trong vài năm đầu, lỵ sở của Dinh Chiêm chính nằm trong xã Cần Húc, nhưng sau đó được dời về xã Thanh Chiêm vào năm 1604.[34]
Mặc dù trong cả hai lần hội thảo (2002 và 2016), các học giả Việt Nam đã đưa ra nhiều giả thuyết khác nhau về những câu hỏi trên, nhưng cuối cùng có lẽ, theo thời gian cho đến nay, mọi người đều đồng ý với Giáo Sư (GS) Nhật Bản Kikuchi Seiichi, thuộc trường nữ đại học Showa, Tokyo sau khi kiểm nghiệm kỹ lưỡng bức tranh cuộn Chaya Shinroku Kochi toko zukan (bắt đầu từ điểm này, chúng tôi xin gọi là Tranh Chaya – hãy xem Hình 19) và xác nhận rằng cơ sở hành chánh của Dinh Chiêm vào đầu thế kỷ 17 hiện diện trên phường Điện Phương, Thị xã Điện Bàn ngày nay.[35] Nhưng đối với chúng tôi, sự khám phá đầy thú vị này vẫn chưa đủ vì ý nguyện của chúng tôi là muốn tìm hiểu sâu xa hơn thế nữa; chúng tôi muốn tìm ra chi tiết rõ hơn về cố dinh đô Dinh Chiêm từ thuở thành lập cho hết cuối đời nhà Nguyễn. Trước đây lỵ sở nó ở Cần Húc, sau này đi về đâu? Ngoài ra, chúng tôi cũng muốn đi tìm vị trí không những của căn nhà ngang đồ sộ Trạm Thương Khách mà Tranh Chaya cho biết nằm sát bên bờ sông Chợ Củi (Thu Bồn), mà còn thành trì Dinh Chiêm nữa. Chúng tôi cũng muốn tìm hiểu sự lớn mạnh của thành phố Dinh Chiêm vào đầu thế kỷ 17. Chúng tôi không nghĩ nó chỉ giới hạn trong phạm vi thành Dinh Chiêm hay Cần Húc.
Còn một điều nữa cũng rất thú vị là trong Đại Nam Nhất Thống Chí khi trình bày về Phủ Điện Bàn[36] đã nhắc rằng vào năm 1822 dưới đời Vua Minh Mạng, huyện Diên Khánh trong phủ Điện Bàn được đổi tên thành huyện Diên Phước (Diên Phúc). Không lâu sau, Vua Minh Mạng sát nhập địa phận của huyện Duy Xuyên vào với phủ Điện Bàn (1836)[37].
Nói tóm lại, dựa theo Đại Nam Nhất Thống Chí 2006, thành Dinh Chiêm cũ là một cơ sở hành chánh đồ sộ, đắp bằng đất, với chu vi 1,410 m (300 trượng)[38]; còn vị trí lỵ sở của nó nằm ở đâu còn cần nhiều khảo cứu và khám phá mới biết được. Nhưng Đại Nam Nhất Thống Chí 2006 cũng cho biết thêm rằng Vua Minh Mạng, vào năm 1833, sau khi xây cất xong thành Điện Bàn, từ bỏ thành Dinh Chiêm cũ và dời thành về xã La Qua[39].
Để thống nhất các dữ kiện lịch sử có liên quan đến Dinh Chiêm, chúng tôi tóm tắt những chi tiết vào Bảng 1 như sau:
Năm
Biến Cố
Ghi Chú
1600
Chúa Nguyễn Hoàng trích huyện Điện Bàn bao gồm 5 xã Tân Phúc, An Nông, Hòa Vinh, Diên Khánh và Phú Châu từ phủ Triệu Phong của Dinh Thuận Hóa, lập thành phủ Điện Bàn và sát nhập phủ mới này vào Trấn Quảng Nam. Ngài cũng đổi tên huyện Hy Giang của phủ Thăng Hoa thành huyện Duy Xuyên; đổi huyện Tư Nghĩa thành huyện Quảng Nghĩa và phủ Hoài Nhơn thành phủ Qui Nhơn.
Phủ Biên Tạp Lục, Lê Quí Đôn, 1776, Nhà Xuất Bản Văn Hóa-Thông Tin, 1976, trang 54-55.Đại Nam Nhất Thống Chí, Q. 7, Phạm Trọng Điềm dịch, NXB Thuận Hóa, Huế, 2006, trang 388, cho biết đến năm 1602, chúa Nguyễn Hoàng mới chính thức thực hiện những công việc này.Tương tự như vậy, Đại Nam Thực Lục, Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, Tiền Biên, quyển 1, trang 36, cho biết những chuyện này được thực hiện vào năm 1604.
Kết luận: Vì Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn ra đời sớm hơn các tài liệu lịch sử khác (1776), chúng tôi phải dựa theo những dữ kiện mà Lê Quí Đôn để lại.
1602
Chúa Nguyễn Hoàng đặt Dinh Quảng Nam bao gồm ba phủ: Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn.
Đại Nam Nhất Thống Chí, Q. 7, 2006, trang 388.
Lỵ sở Dinh Quảng Nam được đặt ở xã Cần Húc (hay còn gọi là Cần Hào), huyện Duy Xuyên.
Đại Nam Nhất Thống Chí, Q. 7, 2006, trang 431; Lê Quí Đôn, Phủ Biên Tạp Lục, 1776, trang 152 và 185. Vào năm 1776, Lê Quí Đôn vẫn gọi “Cần Húc” hay “Cần Hào”, thuộc huyện “Duy Xuyên” – Thanh Chiêm lúc này chưa được nhắc đến. Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, Q. 1, trang 39 cũng cho biết như vậy. Vào năm 1806, Lê Quang Định viết trong Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí nhắc đến xã Văn Đông (trang 221).
Chúa Nguyễn Hoàng trao Dinh Quảng Nam cho con thứ sáu Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635) trấn giữ.
Phủ Biên Tạp Lục, Lê Quí Đôn, 1776, Nhà Xuất Bản Văn Hóa-Thông Tin, 1976, trang 63.
1806
Vua Gia Long đặt tên mới cho Dinh Quảng Nam thành Trực Lệ Quảng Nam Dinh, lệ vào Kinh sư (Huế).
Đại Nam Nhất Thống Chí, Q. 7, Phạm Trọng Điềm dịch, NXB Thuận Hóa, Huế, 2006, trang 388.
Lỵ sở dinh Quảng Nam được dời về xã Thanh Chiêm, huyện Diên Khánh, Phủ Điện Bàn
Lê Quang Định, Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí, 1806, Phan Đăng dịch, trang 218. Điều này cũng là một cột mốc quan trọng. Bắt đầu từ đây, Dinh Quảng Nam (Dinh Chiêm) có lỵ sở nằm ở xã Thanh Chiêm. Trước đó vào năm 1776, Lê Quí Đôn trong Phủ Biên Tạp Lục cho biết lỵ sở dinh Quảng Nam vẫn còn ở xã Cần Húc, trang 152 và 185.Giống như Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí, Đại Nam Thực Lục Chính Biên, Q. 33, trang 758 cũng cho biết như vậy.
Cần Húc bị đổi tên thành Văn Đông, nay lệ thuộc huyện Diên Khánh. Khoảng cách giữa xã Văn Đông và xã Thanh Chiêm là 632 m (316 tầm).
Đại Nam Nhất Thống Chí, Q. 7, Phạm Trọng Điềm dịch, NXB Thuận Hóa, Huế, 2006, trang 431; Lê Quang Định, Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí, 1806, Phan Đăng dịch, trang 221, cho biết Văn Đông cách xã Thanh Chiêm 316 tầm. 1 Tầm = 2 m (ibid, trang 13)
Khoảng 1810
Giữa đời Gia Long, thành cũ Quảng Nam (Dinh Chiêm) ở Thanh Liêm được sửa sang đắp bằng đất.
Đại Nam Nhất Thống Chí, Q. 7, Phạm Trọng Điềm dịch, NXB Thuận Hóa, Huế, 2006, trang 432. Đây có phải là lỗi chính tả không?
1812
Trực Lệ Quảng Nam gồm 2 phủ Điện Bàn và Thăng Hoa. Phủ Điện Bàn bao gồm 2 huyện Diên Khánh, Hòa Vang; phủ Thăng Hoa gồm 3 huyện Duy Xuyên, Hà Đông và Lê Dương.Địa bạ Dinh Quảng Nam được thực hiện trong năm này.
Nguyễn Đình Đầu, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn: Dinh Quảng Nam I (Tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng), NXB, Đại Học Quốc Gia, 2010. Trang 62.Ibid, trang 59.
1822
Vua Minh Mạng đổi tên huyện Diên Khánh thành huyện Diên Phước.
Đại Nam Nhất Thống Chí, Q. 7, Phạm Trọng Điềm dịch, NXB Thuận Hóa, Huế, 2006, trang 389.
1827
Vua Minh Mạng đổi Quảng Nam Trực Lệ làm Trấn Quảng Nam; trích tổng Tân An, thuộc huyện Hà Đông, phủ Thăng Hoa vào huyện Duy Xuyên, phủ Thăng Hoa.
Ibid, trang 388.Ibid, trang 390.
1832
Vua Minh Mạng đổi Trấn Quảng Nam thành Tỉnh Quảng Nam.
Ibid, trang 388.
1833
Sau khi xây xong thành Điện Bàn ở xã La Qua, Vua Minh Mạng chuyển lỵ sở Dinh Quảng Nam về đây. Thành cũ bị bỏ.Thành Điện Bàn chu vi 489 trượng (2,298 km) ; cao 1 trượng 2 thước linh (5,64 m); hào rộng 4 trượng 5 thước (21,15 m ), sâu 7 thước linh (3,29 m).
ibid, trang 432.Ibid, trang 396.
1836
Vua Minh Mạng thuyên chuyển và sát nhập huyện Duy Xuyên, thuộc phủ Thăng Hoa cho vào Phủ Điện Bàn. Nhà vua trích ra 4 tổng từ huyện Duy Xuyên và tạo thành huyện mới Quế Sơn.
Ibid, trang 390-391.Ibid, trang 391.
Bảng 1– Dinh Chiêm trong Quá Trình Lịch Sử
Kết Luận
Trải qua gần 300 năm, bắt đầu từ Chúa Nguyễn Hoàng cho đến 1776, khi Lê Quí Đôn viết Phủ Biên Tạp Lục, Dinh Quảng Nam (tỉnh Quảng Nam hiện nay), được dân gian gọi là Dinh Chiêm, có lỵ sở ở xã Cần Húc, huyện Duy Xuyên. Nhưng thật sự chữ “Dinh” đồng nghĩa với “Trấn” hay “Tỉnh” và có nghĩa là tên của một đơn vị hành chánh rất lớn. Vì thế, Dinh Chiêm cũng có nghĩa là Dinh Quảng Nam mà sau này đến đời vua Minh Mạng được gọi là Tỉnh Quảng Nam. Nhưng đối với các giáo sĩ tây phương hay các nhà vẽ bản đồ, Dinh Chàm hay Dinh Chiêm chỉ là một thành trì lớn hay đô thị quan trọng thuộc về Dinh Quảng Nam ở Đàng Trong. Điều này được phản ảnh trên các bản đồ của họ.
Sau khi phục quốc và thống nhất đất nước vào năm 1802, vua Gia Long quyết định đặt lỵ sở Dinh Quảng Nam ở xã Thanh Chiêm, thuộc huyện Diên Khánh, Phủ Điện Bàn (1806). Đồng thời, Dinh Quảng Nam trở thành trực lệ kinh sư. Lúc này, cái tên Cần Húc hầu như biến mất, trở thành Văn Đông (1806) mà lỵ sở lại bị sát nhập vào huyện Diên Khánh. Vua Minh Mạng đổi tên huyện Diên Khánh thành huyện Diên Phước (1822). Sau khi thành Quảng Nam mới được dựng lên bằng gạch, ngài dời lỵ sở tỉnh Quảng Nam về xã La Qua (1833) và cuối cùng, sát nhập huyện Duy Xuyên vào với phủ Điện Bàn (1836). Điều này cho thấy, để tránh hoang mang trong sử sách sau này, có lẽ vua Minh Mạng quyết định gom góp hai huyện Diên Phúc và Duy Xuyên vào một phủ vì cả hai, nay đều thuộc về phủ Điện Bàn.
Thêm vảo nữa, sự sát nhập của làng xã từ huyện này qua huyện khác đã gây ra hoang mang trong lịch sử, thí dụ xã Cần Húc, trước kia lệ thuộc huyện Duy Xuyên (trước 1776), sau bị đổi tên thành Văn Đông (1806) và chuyển qua huyện Diên Khánh (1812). Trong khi đó, ngược lại, các xã nằm giữa biên giới giữa hai huyện Duy Xuyên và Diên Khánh, như Câu Lâu, Mỹ Xuyên Đông, Mỹ Xuyên Tây, Gia Tịnh, Lang Châu và Bàn Thạch trước đó lệ thuộc vào huyện Diên Khánh (trước 1776); sau đó chuyển về lại với huyện Duy Xuyên (1812)[40]. Đó là không kể chuyện đổi tên huyện từ “Diên Khánh” sang “Diên Phước” (1822), cũng như sự thiếu sót những tài liệu về địa bạ, tên tuổi và ranh giới các làng, xã, tổng, huyện trong các thế kỷ trước đây. Nhất là sau hơn 30 năm nội chiến, Trịnh Nguyễn phân tranh và Tây Sơn nổi dậy, chúng tôi nghĩ những tài liệu lịch sử bị thất lạc hay đốt cháy rất nhiều. Đối với các sử gia hiện đại hay nhà nghiên cứu, để tìm hiểu và tháo gở ra nắm bùi nhùi này thật là một chuyện tương đối rất khó khăn.
Phương Pháp Nghiên Cứu
Bài nghiên cứu của chúng tôi sẽ được chia làm bốn phần chính:
Phần 1 – Vị Trí của Dinh Chiêm trong Các Bản Đồ Cổ
Trong phần này, chúng tôi sẽ sưu tầm 6 tấm bản đồ cổ. Ngoại trừ tấm bản đồ của Cantelli-Rossi xuất bản năm 1683, chúng tôi sẽ tham khảo các bản đồ bắt đầu trong thế kỷ 19 trở lên. Vì chúng tôi cho rằng trước thế kỷ 19, các bản đồ trước đây đều thiếu độ chính xác về kinh độ. Chúng tôi sẽ loại bỏ những bản đồ cổ xuất bản trước thế kỷ này. Những bản đồ được lựa chọn đều ghi rõ vị trí của thành phố Dinh Chiêm. Sau khi ghi nhận và phân tích tọa độ của thành phố Dinh Chiêm từ các bản đồ cổ, chúng tôi sẽ loan báo và so sánh khoảng cách giữa Dinh Chiêm và Hội An với dữ kiện lịch sử mà các giáo sĩ, ngoại giao hay thám hiểm đã viết lại trong sách vở của họ.
Phần 2 – Cần Húc Ở Đâu?
Công việc thứ hai mà chúng tôi dự định thực hiện là tìm cho ra vị trí của xã Cần Húc trong bản đồ hiện đại mà dưới đời vua Gia Long đổi tên nó thành Văn Đông. Đây là một việc tương đối quan trọng vì là cột mốc để xem như là việc bắt đầu trong công cuộc đào xới lịch sử nhà Nguyễn. Tuy câu trả lời lúc đầu có vẻ khó khăn, như những nhà nghiên cứu tiên phong cũng đã từng trải qua, chúng tôi nghĩ mình đã tìm ra hai cách để tìm hiểu ra vị trí thực thụ của xã Cần Húc, đó là vì chúng tôi tìm ra một tấm bản đổ dưới thời Pháp thuộc (1907-1916) có ghi rõ vị trí của xã Văn Đông tức Cần Húc (Hình 7). Cách thứ hai là dùng Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí do Lê Quang Định viết năm 1806 để tính toán ra vị trí của trạm nghỉ Thanh Chiêm, xã Thanh Chiêm, xã Văn Đông và đầm Thanh Hà. Từ đầm Thanh Hà là nơi địa điểm bắt đầu và cố định, chúng tôi theo Google Map để tìm ra vị trí của các làng xã khác – trong quyển địa lý này, tất cả tên tuổi và khoảng cách của chúng đều được viết rất rõ ràng bằng đơn vị đo chiều dài “tầm”[41].
Trong Phần 2, chúng tôi cũng nghiền ngẫm một ý tưởng mới lạ đưa ra trong bài viết của Ngô Văn Minh với tựa đề “Về Vị Trí Lỵ Sở Quảng Nam Năm 1602” đăng trên tập san Nghiên Cứu Lịch Sử, số 1.2004. trong bài viết, ông đã nêu lên một thí dụ lịch sử mà chúng tôi cho là rất quí báu từ gia phả tộc Nguyễn Văn sống trong xã Câu Lâu, đó là một dòng chữ “Câu Lâu xã châu thổ Cần Húc thuộc, Diên Khánh huyện, Uất Lũy tổng, hậu cải Duy Xuyên huyện, Quảng Nam tỉnh”. Trong phần đầu “Câu Lâu xã châu thổ Cần Húc thuộc…” mang hai ý nghĩa nói rằng Cần Húc ngày xưa không chỉ là một xã tầm thường mà là một châu thổ do phù sa bồi bổ và lắng đọng tại cửa sông do sự giao thông giữa sông Cầu Mống và một con sông cổ. Đồng thời, Cần Húc cũng là tên của một thuộc – thuộc là một đơn vị hành chánh tương đối to lớn tương đương với tổng dựa theo nghề nghiệp và trực lệ kinh sư Huế – bao gồm lãnh thổ của chính nó và, tối thiểu, có xã Câu Lâu là thành viên. Nếu đã lệ vào cùng thuộc Cần Húc, trong quá khứ cả hai đều đã từng lệ thuộc vào huyện Duy Xuyên vì trước 1776, xã Cần Húc trực thuộc huyện Duy Xuyên. Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi sẽ đi tìm hiểu và phân tích về hai dữ kiện thú vị liên quan đến Cần Húc như trên.
Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi sẽ dùng sử liệu mang đến từ Đại Nam Nhất Thống Chí. Nhưng ngay cả một số chi tiết nhỏ trong các bản dịch Đại Nam Nhất Thống Chí cũng không thống nhất cho lắm vì có sự khác biệt, tuy nhỏ nhặt, nhưng khiến cho độc giả hoang mang trong các bản dịch ra từ đời vua Tự Đức ấn hành vào năm 2006 so sánh với bản từ đời vua Duy Tân ấn hành vào năm 1964, thí dụ như trong Đại Nam Nhất Thống Chí, 2006 viết xã Cần Húc nằm gần xã Thanh Chiêm, nhưng trong Đại Nam Nhất Thống Chí, 1964 có chỗ lại cho rằng xã Thanh Chiêm chính là lỵ sở Dinh Chiêm lúc ban đầu triều Nguyễn mà không nhắc nhở gì đến xã Cần Húc.[42] Có nhiều chi tiết diễn tả trong Đại Nam Nhất Thống Chí, 2006 nhưng lại thiếu trong bản dịch 1964. Ngay cả các chi tiết trong các bản dịch Phủ Biên Tạp Lục do Lê Quí Đôn viết cũng có khúc mắc. Vì thế, khi cần, chúng tôi sẽ dùng một ấn bản mà thôi, rồi cố gắng tìm tòi các sử liệu khác, cùng thời để giải tỏa các khiếm khuyết này.
Theo chúng tôi nghĩ, có một số chi tiết quá cô đọng viết trong Đại Nam Nhất Thống Chí đã gây hoang mang và nhiều tranh cãi trong giới trí tức tại Quảng Nam và cả nước, thí dụ như cái tên “Dinh Chiêm”. Có một số nhà nghiên cứu gọi Dinh Quảng Nam là Dinh Chiêm, còn một số khác muốn gọi nó là Dinh Trấn Thanh Chiêm. Để nhấn mạnh cái tên tục Dinh Chiêm như đã được các giáo sĩ dòngTên[43] thường dùng trong đầu thế kỷ 17, chúng tôi sẽ dùng từ “Dinh Chiêm” để ấn định Dinh Quảng Nam mà cũng là cái tên tục của thành phố Quảng Nam (Quinam). Còn cái tên Cần Húc hay Văn Đông thì sao? Vị trí của chúng và quá trình lịch sử của chúng là như thế nào? Hay nói một cách khác là tại sao cách Chúa Nguyễn lại chuyển cơ sở hành chánh dinh trấn đi nơi khác để cuối cùng xây dựng một thành lũy kiên cố Dinh Chiêm ở miền nam Điện Bàn. Vậy thì vị trí thành Dinh Chiêm ở đâu? Có phải là nó tọa ngự tại xã Thanh Chiêm hay không? Tuy Tranh Chaya cho chúng ta biết vào năm 1640, căn nhà Thương Khách nằm sát bên bờ Sông Chợ Củi, nhưng vị trí của nó ở đâu trong phường Điện Phương nay vẫn còn là một nghi vấn. Nếu tìm ra vị trí ngôi nhà này, chúng tôi hy vọng sẽ tìm thấy thành Dinh Chiêm vì chúng tôi nghĩ chúng nằm rất gần nhau. Một câu hỏi không kém quan trọng là lỵ sở Dinh Chiêm, trong lịch sử nhà Nguyễn, là Cần Húc (Văn Đông) được sát nhập vào với Huyện Duy Xuyên, nhưng trong một thời gian dài sau đó, nó lại thuộc về huyện Diên Khánh (Diên Phước). Sự kiện này khiến chúng tôi, những nhà nghiên cứu hiện đại phải chóng mặt, hoa mắt. Tuy vậy, chúng tôi không bao giờ cho rằng các sử quan nhà Nguyễn đã viết một cách sai lầm hay Lê Quí Đôn lầm lẫn. Chúng tôi chỉ nghĩ rằng sau khi học hỏi về sự thay đổi của sông ngòi ở miền nam Điện Bàn, nhất là hai con sông Câu Lâu và Cầu Mống[44], những câu trả lời thích đáng sẽ hiện ra để giải tỏa sự ham muốn tìm hiểu sự thật trong lịch sử.
Ngoài Đại Nam Nhất Thống Chí, để đưa ra những nhận xét và kết luận xác đáng, chúng tôi sẽ cần rất nhiều tài liệu lịch sử khác như Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1806) do Lê Quang Định viểt; Phủ Biên Tạp Lục (1776) và Kiến Văn Tiểu Lục Toàn Tập do Lê Quí Đôn viết và cả Đại Nam Thực Lục (1821-1909). Sau đó, chúng tôi sẽ sưu tầm trong mạng hầu hết các bản đồ cổ liên quan đến Hội An; chúng tôi sẽ chú tâm nhất vào vùng nam Điện Bàn và các phụ cận về hướng nam của nó vì vùng đất này, nói chung là dinh đô của Trấn Quảng Nam – Dinh đô này bắt đầu vào năm 1602, khi Chúa Nguyễn Hoàng ghé qua Cần Húc và rất hứng thú với phong cảnh nơi đây. Dựa theo ngày tháng, chúng tôi sẽ bắt đầu bằng với Tranh cổ Chaya hiện đang cất giữ tại Chùa Jomyo-ji được vẽ rất tỉ mỉ khoảng năm 1640[45] do một thương nhân Nhật từng sống nhiều năm tại Hội An –hãy xem Hình 19. Sau đó, chúng tôi sẽ sưu tầm tấm bản đồ cổ điễn Đại Việt Thiên Nam Chí Lộ Đồ Thư (1686). Đây là một tấm địa đồ cổ nhất trong lịch sử Đại Việt – hãy xem Hình 12; tấm bản đồ người Anh có tựa đề Plan of Touron Harbour do Capt. Arthur Gore và Philip Bromfield vẽ (1764) – hãy xem Hình 26; tấm Giáp Ngọ Nguyên Bình Nam Đồ (1774) trong Hồng Đức Bản Đồ – hãy xem Hình 18[46]; tấm bản đồ nhỏ từ đời vua Đồng Khánh (1886-1888) –hãy xem Hình 23; sau đó là tấm bản đồ khá quan trọng đối với chúng tôi. Trong khoảng thời gian 1907-1916, chính quyền Pháp Thuộc bận rộn xây cất một đường xe lửa nối liền hai thành phố Đà Nẵng và Hội An. Điều mà chúng tôi cảm thấy lí thú về tấm bản đồ này (Hình 7) là nó cung cấp rất đầy đủ tên các làng, xã, huyện của các vùng chung quanh Hội An, kể cả Điện Bàn,Vĩnh Điện, v.v… Quan trọng hơn nữa là bản đồ này cho thấy vị trị của xã Văn Đông (chính là xã Cần Húc ngày xưa) nằm bên bờ bắc (tả ngạn) sông Cầu Mống – Tên con sông Cầu Mống được trích ra từ bản đồ quân sự Hoa Ky vẽ vào năm 1972-1984 (Hình 24); tiếp sau đó là hai tấm địa đồ vùng Điện Bàn được giới thiệu trong luận án Tiến Sĩ của Huỳnh Thị Bảo Châu (2012) cũng rất quan trọng đối với công việc nghiên cứu chúng tôi về địa lý và địa hình của vùng nam Điện Bàn trong đầu thế kỷ 17 và 20 – Hình 9 và 27. Rất tiếc, tấm bản đồ thuộc địa này cũng cho thấy vào năm 1930, thành Dinh Chiêm cổ xưa đã bị san bằng. Để hiểu rõ những thay đổi và tiến triển trong một gian ngắn về địa hình tại miền nam Điện Bàn, chúng tôi kết hợp hai Hình 7 và 27 vào với nhau trong Hình 28. Đồng thời, trong vòng 23 năm (1907-1930) đã có sự tiến triển vượt bực trong giao thông toàn quốc, nói chung, và nam Điện Bàn, nói riêng, dưới thời Pháp thuộc. Con đường đất mòn Thiên Lý[47] nằm bên bờ tường Dinh Chiêm cũ đã được thay thế bằng Quốc Lộ (QL) Số 1 chạy xuyên qua giữa nội thành Dinh Chiêm, khiến thành Dinh Chiêm hầu như bị phá hủy và không còn nguyên vóc dáng như xưa nữa. Tuy nhiên, thế vào đó, chính quyền Pháp đã xây dựng “Dinh ấp Thanh Chiêm” cho xã Thanh Chiêm. Điều này nói lên tầm mức quan trọng của Thanh Chiêm vào thời ấy. Khi góp nhặt chi tiết từ hai tấm bản đồ 1907 và 1930, chúng ta có thể mường tượng ra vóc dáng đồ sộ của thành Dinh Chiêm thuở nào. Từ hai tấm bản đồ này, chúng tôi nghĩ chúng tôi có thể vẽ lại sơ đồ của nội thành Dinh Chiêm cùng với vị trí của nó so với Đường Thiên Lý ngày xưa (trước khi chính quyền Pháp Thuộc xây cất Quốc Lộ Số 1).
Phần 3 – Sự Thay Đổi lệ thuộc của Các Xã giữa Huyện Duy Xuyên và Huyện Diên Khánh
Mục đích của Phần 3 là đi tìm hiểu sự liên hệ trong hành chánh giữa hai huyện Duy Xuyên và Diên Khánh mà trong đó, một số xã từng lệ thuộc vào huyện Duy Xuyên, nhưng vì một lý do nào đó chuyển lệ sang huyện Diên Khánh. Chúng tôi muốn biết lý do gì mà triều đình họ Nguyễn lại làm như thế. Bắt đầu từ xã Cần Húc, vào thời lập quốc 1602, chúa Nguyễn Hoàng lệ thuộc nó vào với huyện Duy Xuyên. Nhưng đến năm 1776, Lê quí Đôn cho biết trong Phủ Biên Tạp Lục là xã Cần Húc vẫn giữ lệ cũ trong huyện Duy Xuyên,[48] nhưng có một số xã trong huyện Duy Xuyên lại thay đổi và lệ theo huyện Diên Khánh. Mãi sau khi vua Gia Long thống nhất đất nước, sau khi xã Cần Húc mới bị đổi tên ra Văn Đông (1806),[49] [50] xã Thanh Chiêm trở thành lỵ sở của Dinh Quảng Nam và lệ thuộc huyện Diên Khánh.[51]
Hiện tại, chúng tôi nghi ngờ rằng sự chuyển hướng về lỵ huyện trong hành chánh của một số xã như Câu Lâu, Mỹ Xuyên Đông, Mỹ Xuyên Tây, Bàn Thạch, v.v… có liên quan đến bồi, lở của sông ngòi ở miền nam Điện Bàn. Khi quan sát một số bản đồ cổ như tranh Chaya, Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư (1686) hay Giáp Ngọ Bình Nam Đồ (1774), chúng tôi nhận thấy rằng địa hình vùng nam Điện Bàn thay đổi rất nhiều trong suốt 400 năm qua. Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi sẽ tìm hiểu nguyên do của những thay đổi trong sông ngòi để cuối cùng có thể đưa ra một lời kết luận thích đáng.
Phần 4 – Cuộc Tìm Kiếm Thành Dinh Chiêm và Trạm Thương Khách Dưới Thời Các Chúa Nguyễn
Trước hết, chúng tôi đặt giả thiết là Chúa Nguyễn Hoàng, trước khi thành lập dinh trấn ở nam Điện Bàn sẽ khảo sát địa thế vùng đó rất kĩ càng. Dựa theo những dữ kiện sẵn biết về Dinh Chiêm như địa điểm lúc ban đầu của nó, thí dụ như vị trí của Cần Húc, Thanh Chiêm, Điện Phương Đông-Tây và nhất là con đường Thiên lý chạy thẳng về phía tây nam trong vùng nam Điện Bàn, chúng tôi sẽ dùng website www.floodmap.net để thu thập cao độ của những nơi này. Từ website www.floodmap.net, dữ kiện mà chúng tôi muốn thu lượm là độ cao của một hay nhiều điểm trên tuyến đường Thiên Lý và các vùng chung quanh vì chúng tôi nghĩ, đất đai cao độ thì xác suất sẽ có phần cao hơn để Chúa Nguyễn xây dựng thành Dinh Chiêm hay Trạm Thương Khách trên đó. Chúng tôi cũng nghĩ rằng sau khi tìm ra dinh thự, chúng tôi sẽ tìm thấy Trạm Thương Khách hay ngược lại vì chúng có khả năng nằm rất gần nhau.
Dựa vào tin tức mới về sự khám phá của các nhà bác học vào năm 2015 về dấu tích của hệ thống sông ngòi ngầm dưới những bãi sa mạc trong vùng Sahara ở Phi Châu bằng cách chụp hình vệ tinh, chúng tôi cũng đặt lên một giả thuyết mới rằng tương tự như thế, chúng tôi hy vọng dùng những hình ảnh vệ tinh tải xuống tư Google Map, chúng tôi có thể nhận diện hầu hết các vùng sình lầy, sông ngòi, đầm hồ hay ruộng vườn trong vùng nam Điện Bàn được bồi đắp hay sạt lở trong vòng mấy trăm năm nay. Một trong những mục đích chính của chúng tôi là hy vọng tìm ra được bờ sông Chợ Củi nằm gần sát thành Dinh Chiêm trong thế kỷ 17. Ngoài ra, qua kết quả thâu lượm từ www.floodmap.net chúng tôi cũng mong muốn tìm thấy tiềm năng của một vài vùng đất cao chung quanh miền nam Điện Bàn mà chúng có thể được dùng trong việc xây cất căn nhà thương khách đồ sộ nằm bên bờ sông Chợ Củi như trong tranh Chaya. Dựa vào lịch trình tiến hóa và biển đổi của sông ngòi chung quanh nam Điện Bàn, nhất là của bốn dòng sông Chợ Củi, Câu Lâu, Dưỡng Chân và Cầu Mống. Chúng tôi lựa chọn bốn dòng sông quan trọng này để học hỏi là vì sự thay đổi về chiều rộng của các bờ sông, lẫn chiều hướng chảy của chúng trong quá trình lịch sử phản ảnh trên các bản đồ cổ có thể sẽ cho chúng tôi những khám phá thích thú. Chúng tôi đặt ra giả thuyết rằng chính sự thay đổi của những dòng sông này, có lúc bồi, có lúc sạt lở, và cũng có lúc khô cạn sẽ đưa ra những câu trả lời xác đáng về những dữ kiện lịch sử, thí dụ như trong lịch sử xã Câu Lâu hay Mỹ Xuyên có lúc thuộc về huyện Duy Xuyên, nhưng theo thời gian sau đó, lại có khi chúng thuộc về xã Diên Khánh[52]. Nói một cách tổng quát, chúng tôi muốn trở về quá khứ để nhận diện ra địa hình của các con sông như Cầu Mống, Câu Lâu, Thu Bồn, Dưỡng Chân, Bà Rén, v.v… nhất là sau những mùa lụt lội trong lịch sử nam Điện Bàn. Sau khi nhận dạng ra chúng trong hình chụp vệ tinh, dựa vào các sách vở lịch sử cùng với các bản đồ cổ, chúng tôi hy vọng sẽ khám phá ra vị trí, địa thế và địa hình xưa kia của làng, xã, thôn như Cần Húc (Văn Đông),Thanh Chiêm, thành Dinh Chiêm, Phú Chiêm, Đông An, Chợ Củi v.v… trong nhiều thế kỷ trước. Sau đó, để đưa đến nhưng phần kết luận chính xác về chúng trong mỗi thời gian, chúng tôi sẽ sưu tầm hầu như tất cả các bản đồ xưa vẽ vào nhiều thế kỷ trước có liên quan đến Hội An, Dinh Chiêm hay Đà Nẵng. Chúng tôi hy vọng một trong những bản đồ cổ sẽ chứa đựng nhiều dữ kiện về thành Dinh Chiêm và trạm thương khách. Sau khi tìm ra dữ liệu trong các bản đồ cũ, chúng tôi sẽ đối chiếu và minh định những dữ kiện này trong các sách sử như Đại Nam Nhất Thống Chí, Phủ Biên Tạp Lục, Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí, Đại Nam Thực Lục hay chính trong Tranh Chaya. Ngoài ra, chúng tôi cũng không quên tra cứu những tài liệu hữu ích từ các danh nhân, nhà thám hiểm đã từng đặt chân đến Hội An, thành phố Dinh Chiêm hay các vùng phụ cận như Quán Sứ Hà Lan Jeronimus Wonderaer (1602), G.S. Alexandre de Rhodes (1640), William Dampier (1688), Thiền Sư Thích Đại Sán (1695) và Charles Chapman (1778). Dùng nhiều dữ kiện khác nhau nhưng chỉ điểm cùng phương hướng, chúng tôi hy vọng rằng cuối cùng chúng tôi sẽ thành công trong việc nhận dạng thành Dinh Chiêm và Trạm Thương Khách trên bản đồ nam Điện Bàn.
Phần 1
Vị Trí của Thành Phố Dinh Chiêm trong Các Bản Đồ Cổ
Mục đích chính của chúng tôi trong Phần 1 là để tìm hiểu một cách tổng quát về vị trí của thành Dinh Chiêm (còn gọi là Dinh Chàm, hay Caciam (Kẻ Chàm)) dưới ánh mắt của người ngoại quốc qua những tấm bản đồ cổ. Dựa theo nhiều nhân chứng lịch sử kể cả Quán Sứ Hà Lan Jeronimus Wonderaer (1602)[53] G.S. Alexandre de Rhodes (1640)[54], Thiền Sư Thích Đại Sán (1695)[55], Charles Chapman (1778)[56], Phạm Đình Khiêm (1958)[57], v.v… tất cả đều cho biết thành Dinh Chiêm nằm rất gần Hội An ở phía tây, hay chính xác hơn, một số họ còn cho biết hai thành phố này cách xa nhau khoảng 9 km (6 miles) bằng đường thủy. Vì thế, chúng tôi sẽ dùng con số này và so sánh với những kết quả từ 6 cái bản đồ cổ mà chúng tôi sưu tầm trong mạng.
Trong lúc lựa chọn các bản đồ cổ, ngoại trừ tấm bản đồ cổ do Cantelli-Rossi vẽ năm 1683 – chúng tôi lựa chọn nó vì nó có vẻ chính xác và tương đối có nhiều chi tiết về địa hình của Hội An và Dinh Chiêm, chúng tôi sẽ loại bỏ các bản đồ cổ xưa hơn trong thế kỷ 16, 17 và 18. Lý do là vì cho đến đầu thế kỷ 19, các nước như Anh và Pháp mới sở hữu những phương thức tính toán kinh độ một cách chính xác trên hàng hải. Cho mãi đến năm 1884, cả thế giới mới công nhận đường kinh tuyến chính 0º chạy dài qua thành phố Greenwich, Anh Quốc là tiêu chuẩn quốc tế. Vì thế, trong một số bản đồ cổ, chúng tôi phải thay đổi hệ thống kinh tuyến của các quốc gia khác sang vị trí tại Greenwich.
Trên mỗi bản đồ, nếu có thể được, chúng tôi sẽ dùng nhãn quang để đọc tọa độ của ba thành phố: Đà Nẳng, Hội An và Dinh Chiêm – tuy vẫn biết rằng cách đo đạc tọa độ từ các bản đồ cũ, đôi khi rách nát, hay nhăn nheo có thể sẽ đưa đến những địa điểm thiếu chính xác, nhưng chúng tôi vẫn phải cố gắng tận sức mình. Sau đó, chúng tôi sẽ tính khoảng cách chim bay giữa Hội An và Dinh Chiêm để xem nó có chính xác hay không khi so sánh với con số 8-9 km trong các tài liệu lịch sử. Một điều quan trọng nữa là chúng tôi muốn biết vị trí tương cận của hai thành phố này, đó là chúng nằm cùng một bên phải (hữu ngạn) hay trái (tả ngạn) bên bờ sông Thu Bồn.
Kết Quả
Sau đây là một vài nhận xét của chúng tôi sau khi tra cứu rất kỹ lưỡng những bản đồ trên:
1. Tất cả các bản đồ đều cho biết Hội An và thành Dinh Chiêm nằm cùng bên bờ bắc (tả ngạn) của sông Thu Bồn. Đây là kết luận của các nhà nghiên cứu đương thời sau buổi hội thảo vào năm 2016. Chúng tôi đồng ý với họ về điểm này.
2. Tọa độ của ba thành phố Đà Nẵng, Hội An và Dinh Chiêm từ các bản đồ cổ (Hình 1-6) không chính xác. Kết quả từ các bản đồ cổ cho thấy khoảng cách giữa Dinh Chiêm và Hội An là từ 28 km đến 72 km, xa hơn 8-9 km mà chúng tôi ghi nhận từ sách vở của các giáo sĩ Ki tô Giáo, các nhà ngoại giao hay nhà thám hiểm vào thời xưa. Tuy nhiên, từ những bản đồ xưa, chúng ta biết vị trí liên đới giữa những thành phố này rất mật thiết với nhau. Hãy xem Bảng 2 với những kết quả được tóm tắt sau đây:
Số
Bản Đồ
Khoảng Cách từ Hội An đến Dinh Chiêm (Km/Miles)
Dinh Chiêm Vĩ/Kinh Độ
1
Cantelli-Rossi 1683
72
45
(15,732,107,664)
2
Rigobert Bonne, 1771
28
18
(15,575,107,700)
3
John Cary, 1801
56
35
(15,542,107,615)
4
Philippe Vandermaelen, 1827
28
18
(15,889,108,007)
5
John Arrowsmith, 1844
45
28
(15,640,107,625)
6
John Dower, 1844
44
27
(15,680,107,670)
Bảng 2 – Khoảng Cách Đường Chim Bay giữa Dinh Chiêm và Hội An từ Các Bản Đồ Xưa
Mặc dù tấm bản đồ Cantelli-Rossi 1683[58] xa xưa nhất, nhưng lại cho thấy nhiều chi tiết nhất. Trên bản đồ này, chúng ta có thể thấy đầm Thanh Hà nằm giữa Hội An và Dinh Chiêm. Chi tiết này trên tấm bản đồ Cantelli-Rossi thật rõ. Ngoài ra, chúng tôi còn có thể nhận ra được Phú Chiêm nằm về phía đông của Dinh Chiêm. Tuy nhiên, khoảng cách giữa Hội An và Dinh Chiêm có phần lệch lạc, cách xa nhau khoảng 72 km.
Cả hai tấm bản đồ Rigobert Bonne, 1771 và Philippe Vandermaelen, 1827 cho ra cùng một kết quả kề cận nhất, đó là 28 km. Nhưng so với 8-9 km như mong muốn, con số này vẫn còn rất cao và không chính xác.
Phẩn 2
Cần Húc Ở Đâu?
Đây là câu hỏi khúc mắc trong nhiều năm nay mà các nhà nghiên cứu thường băn khoăn, bứt rứt hơn 60 năm nay. Ngoài ra, xưa nay các nhà nghiên cứu cũng muốn biết sự quan hệ giữa Cần Húc ở huyện Duy Xuyên và Thanh Chiêm ở huyện Diên Khánh. Thoáng nhìn hai cái tên cho thấy dường như chúng là hai đia địa phận riêng biệt vì chúng lệ vào hai huyện hoàn toàn khác nhau. Nhưng các nhà nghiên cứu thường tự hỏi phải chăng chúng là chỉ là một địa phương, nhưng có hai tên khác nhau? Nhưng nếu Cần Húc chính là Thanh Chiêm thì tại sao lại có sư thay đổi trực lệ từ huyện Duy Xuyên qua huyện Diên Khánh? Bắt đầu vào năm 1958, nhà nghiên cứu Phạm Đình Khiêm ra tận Thanh Chiêm, tỉnh Quảng Nam để điều tra và tìm hiểu thêm về cái chết của Thầy Giảng Anrê Phú Yên. Sau khi trở về, ông loan báo là Thanh Chiêm chính là sử danh của Cần Húc xưa kia. Dĩ nhiên, có một số nhà nghiên cứu không đồng ý với quan điểm này và vì vậy họ tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi để đưa đến câu trả lời thích đáng. Đến năm 1995, Sử Gia Huỳnh Công Bá, sau khi tốn nhiều thì giờ điều tra, đã kết luận rằng Cần Húc không phải là Thanh Chiêm mà hơn nữa, sau này đến đời vua Tự Đức (1829-1883), nó đổi tên thành “Cồn Úc”, một xứ trong xã Văn Đông. Riêng nhà nghiên cứu Nguyễn Sinh Duy lại nghĩ rằng Cần Húc là ký âm của “Kan Hu”; trong tiếng Chăm có nghĩa là lò luyện đúc đồng. Chúng tôi đồng ý với sự suy nghĩ này của hai nhà nghiên cứu Huỳnh Công Bá và Nguyễn Sinh Duy, và sẽ tìm cách định vị xã Cần Húc vào đầu thế kỷ 17.
Dựa vào lịch sử chúng tôi biết rằng xã Cần Húc vẫn là lỵ sở của Dinh Quảng Nam trong thời nội chiến giữa nhà Nguyễn và Tây Sơn (1773-1802)[59]. Trong đời vua Gia Long, vào năm 1806, Lê Quang Định trong Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí bắt đầu giới thiệu hai cái tên Văn Đông[60]và Thanh Chiêm trong sử sách và quan trọng hơn, cho biết xã Cần Húc không còn là lỵ sở của Dinh Quảng Nam nữa. Bắt đầu từ đó, xã Thanh Chiêm chính thức trở thành lỵ sở của Dinh Quảng Nam.[61] Trong Địa Bạ Quảng Nam viết năm 1812, Nguyễn Đình Đầu cho biết diện tích của xã Văn Đông là 11.1.11.6.1 (khoảng 5 ha)[62] so với xã Thanh Chiêm (248.8 4.1 – khoảng 121 ha).[63] Điều này cho thấy tầm mức quan trọng của xã Thanh Chiêm đối với ngoại thương dưới thời vua Gia Long và cho chúng ta thấy rằng trong lịch sử xã Cần Húc (nay trở thành xã Văn Đông) không phải là xã Thanh Chiêm. Tuy đã hiểu nhiều hơn về cả hai xã riêng biệt này, chúng tôi vẫn muốn biết vị trí của chúng ở đâu trong Dinh Quảng Nam vì chúng tôi vẫn thắc mắc tại sao chúng lại lệ thuộc vào hai huyện Duy Xuyên và Diên Khánh hoàn toàn khác nhau như vậy.
Hiện tại, chúng tôi đã nghĩ ra 2 cách để tìm ra vị trí của xã Văn Đông (tức là xã Cần Húc vào đầu thế kỷ 17).
Cách 1 – Hãy xem Hình 7 – Thành Dinh Chiêm Tồn Tại dưới Thời Pháp Thuộc (1907-1916). Giữa hình, cái tên xã Văn Đông được vẽ và bao lại trong vòng tròn đỏ. Đó là vị trí xã Văn Đông (tức là xã Cần Húc vào đầu thế kỷ 17-19) ở phía tây nam của xã Phú Chiêm, đối diện với xã Câu Dẫn (ngày xưa là xã Câu Lâu), cách nhau qua con sông Cầu Mống. Diện tích xã Văn Đông vào năm 1812 rất bé nhỏ, chỉ khoảng 5 ha.[64]
Cách 2 – Chúng tôi sẽ dùng những khoảng cách giữa các xã như xã Thanh Chiêm, xã Văn Đông và trạm nghỉ Thanh Chiêm đến đầm Thanh Hà đều được cung cấp trong Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí do Lê Quang Định viết năm 1806. Sau đó, dùng đầm Thanh Hà như là một cột mốc vì nó tương đối không thay đổi với chiều rộng là 138 m, chúng tôi sẽ dùng Google Map để đo khoảng cách giữa bến đò Thanh Hà và xã Văn Đông (2.270 m)[65]; giữa xã Văn Đông và xã Thanh Chiêm (632 m)[66] và giữa xã Thanh Chiêm và Trạm Nghỉ Thanh Chiêm (846 m).[67] – các khoảng cách đều được đổi ra từ tầm ra mét (1 tầm = 2 mét). Cuối cùng, chúng tôi sẽ tìm ra vị trí và tọa độ của xã Văn Đông, xã Thanh Chiêm and trạm nghỉ của nó. Nhưng chúng tôi muốn lưu ý rằng trong việc tính toán toạ độ của các vị trí lịch sử này, chúng tôi sẽ đặt ra giả thiết rằng tuyến đường Nguyễn Du chính là con đường đất bọc theo phía nam thành Dinh Chiêm ra đến Văn Đông (Hình 7) mà Phạm Đình Khiêm đã nhắc đến khi ông ra Thanh Chiêm tìm hiểu về thành phố Dinh Chiêm.[68] Mặc dù, đường Nguyễn Du không phải là con đường đất ngày xưa, nhưng chiều dài và đường hướng của chúng, chúng tôi nghĩ, cũng không cách biệt cho lắm. Hãy xem kết quả ghi nhận trên Google Map (Hình 8) sau đây.
Kết quả:
Khi dùng Địa Bạ Quảng Nam để tìm hiểu diện tích Văn Đông vào năm 1812, chúng tôi nhận thấy rằng địa phận của nó rất nhỏ, chỉ còn khoảng 5 ha, trong khi diện tích của xã Thanh Chiêm to lớn hơn nó hơn 24 lần (121 ha). Điều này cho thấy dưới đời vua Gia Long và các vị vua kế tiếp, Cần Húc, bấy giờ đổi tên thành Văn Đông, không còn giá trị trong lãnh vực thương mại hay quốc phòng. Có lẽ lúc nội chiến xảy ra giữa Tây Sơn, nhà Nguyễn và Trịnh, Cần Húc đã bị tàn phá không còn nhận diện được nữa sau 30 năm chiến tranh. Vì thế, sau cuộc nội chiến, mọi dịch vụ thuế má và ngoại thương với các nước ngoài đều được dọn về xã Thanh Chiêm. Bắt đầu từ đời vua Gia Long, lịch sử cho thấy xã Thanh Chiêm biến thành lỵ sở thực thụ của Dinh Quảng Nam.
Từ nội thành Dinh Chiêm, nằm sát bên tuyến đường Thiên Lý, đến xã Văn Đông là hơn 2 km. Khi so sánh vị trí Văn Đông tìm ra từ Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí và trong bản đồ trong thời Pháp Thuộc 1907-1916 (Hình 7), chúng tôi nhận thấy kết quả từ hai tài liệu rất tương xứng; vì vậy, chúng tôi có thể cho rằng vị trí xã Văn Đông trên hai bản đồ đều rất chính xác. Ngoài ra, để kiểm chứng địa điểm xã Văn Đông thêm một lần nữa, nếu chúng ta chú ý trên tranh Chaya (Hình 19), nằm bên bờ bắc sông Cầu Mống có vẽ một gian nhà ba gian, hai chái và một cây dừa cao đứng sừng sửng bên đứng bên cạnh; gần đó bên phải là một bến đò. Chúng tôi nghĩ mái nhà lá tượng trưng cho xã Cần Húc xưa kia. Vị trí căn nhà này rất phù hợp với xã Văn Đông trong hai tài liệu trước.
Địa Phận Châu Thổ Cần Húc
Trong gia phả của tộc Nguyễn Văn mà gia đình ông Nguyễn Ngọc Lan, người xã Câu Lâu đã cung cấp cho biết rằng Cần Húc đã có một thời là châu thổ mà trong đó, xã Câu Lâu cũng từng lệ thuộc vào nó. Trong gia phả, gia đình ông đã ghi nhận như sau:
Hình 9 được bổ túc dựa vào công trình nghiên cứu của các nhà địa chất Vũ Văn Phái và Đặng Văn Bào – chúng tôi ghi thêm tên các địa danh trên bản đồ. Tin tưởng vào sự chính xác của hai nhà địa chất chuyên môn, chúng tôi phải đặt giả sử rằng địa mạo của nam Điện Bàn trong hình phản ảnh quang cảnh địa thế vùng nam Điện Bàn vào đầu thế kỷ 17. Hình 9 vẽ rất rõ hệ thống sông ngòi ở đây. Ở miền nam Điện Bàn, ngay ngã tư mà bốn con sông nhập làm một, hai dòng đi lên từ nguồn, đó là Sông Chợ Củi cùng với Sông Dưỡng Chân (Sông Bà Rén) nhập làm một dồn dập chảy về hướng đông-đông bắc. Không bao lâu, dòng nước lũ này lại chia đôi khi tiến vào địa phận xã Cần Húc và xã Câu Lâu; Sông Cầu Mống nằm ở phía bắc có khuynh hướng chảy về phía đông bắc – đông tách rời xã Cần Húc và xã Câu Lâu ra hai miền riêng biệt – tả ngạn có xã Cần Húc và xã Câu Lâu nằm ở hữu ngạn. Còn dòng Sông Câu Lâu ở phía nam chảy về hướng đông bao bọc xã Câu Lâu. Nằm giữa hai sông Câu Lâu và Cầu Mống, nó nay trở thành một gò nổi, trông giống như một cái lá cây non nằm trên mặt nước, nghiêng nghiêng về hướng đông bắc vậy. Khi chú ý kỹ hơn, trên vùng đất Cần Húc cũng có một dòng sông cổ ngoằn ngoèo chạy thẳng từ bắc xuống nam, cắt Cần Húc ra làm hai miền đông-tây trước khi đổ ra sông Cầu Mống.
Vì sông Cầu Mống tương đối hiền hòa chảy chậm nên phù sa từ con sông cổ này tạo thành nhiều lớp trầm tích dưới đáy sông và dần dần tạo thành châu thổ Cần Húc. Có lẽ trong thế kỷ 18, con sông cổ này bắt đầu bị khô cạn vì sông Vĩnh Điện giờ đây cũng bị bế tắc – vì thế, vua Minh Mạng mới phải nới sâu và rộng nó ra hai lần vào năm 1822 và 1826. Vả lại, lịch sử cho thấy bãi bồi đắp bởi phù sa tại châu thổ Cần Húc nay cũng bịt kín con sông cổ ở cửa sông nên chúng tôi có thể khẳng định rằng con sông này đã không còn tồn tại nữa. Tuy nhiên, khi nhìn kỹ hình vệ tinh trong Michelin Map (Hình 10), chúng tôi vẫn nhận ra châu thổ hình tam giác tại cửa sông Cầu Mống.
Để kiểm điểm lại giả thuyết về châu thổ Cần Húc, chúng tôi dùng kênh floodmap.net để tìm kiếm châu thổ hình thành bên bờ bắc sông Cầu Mống. Quả nhiên chúng tôi nhận diện ra một bãi bồi ngay bên sát bên cạnh sông Cầu Mống tại vị trí gần Cần Húc. Điều này nói lên rằng xưa kia xã Cần Húc, lúc vẫn còn là lỵ sở của Dinh Quảng Nam, bao gồm địa phận của châu thổ Cần Húc và xã Văn Đông dưới thời vua Gia Long. Hãy xem kết quả trong Hình 11.
Thuộc Cần Húc
Vào năm 1688, nhà thám hiểm William Dampier (1651-1715) trên hành trình đến Úc Châu đã ghé chân qua Đàng Trong, đã đến thăm một thành phố mà ông gọi là “City of Quinam” (Thành phố Quảng Nam). Trong sách mà ông truyền lại, trước hết chiếc thuyền buôn của ông cập bến tại Cù Lao Chàm[78]:
Chúng tôi cho rằng ông đã ghé thăm Cần Húc vì Cần Húc một thành phố riêng biệt đã được thành lập gần một trăm năm nay kể từ 1602. Nơi đây chính là dinh đô của toàn Dinh Quảng Nam. Nhưng muốn đến Cần Húc, từ bến đò nằm phía bắc sông Câu Lâu, ông phải tiếp tục đi theo đường bộ tiến về phía bắc, qua khỏi xã Câu Lâu và dòng suối Cầu Mống. Vì thế, chúng tôi nghĩ, Cần Húc trong thời gian này cũng nhộn nhịp không kém gì Hội An, nhưng rất thơ mộng và vì thế chúa Nguyễn Hoàng mới quyết định lập dinh cư tại đây. Để tìm hiểu thêm sự liên hệ giữa xã Cần Húc và xã Câu Lâu, chúng tôi sẽ bàn luận về từ “thuộc” trong gia phả tộc Nguyễn Văn.
Trong gia phả tộc Nguyễn Văn có nhắc đến một từ mà chúng tôi cho rằng khá quan trọng và cần được để ý đến, đó là từ “thuộc” được gán liền với châu thổ Cần Húc trong dòng chữ ‘Câu Lâu xã châu thổ Cần Húc thuộc”. Ngoài ý tưởng về thuộc, gia phả tộc Nguyễn Văn còn cho biết rằng xã Câu Lâu – hiện nay là phường Điện Phương Đông – lệ thuộc vào châu thổ Cần Húc. Từ đó, chúng tôi có thể suy luận thêm rằng, ít nhất, cả hai xã Câu Lâu và Cần Húc đều nằm trong địa hạt của “thuộc Cần Húc”.[81] Đồng thời, cũng như quan niệm của William Dampier, chúng tôi đồng ý và cho rằng thuộc Cần Húc xưa kia rất rộng bao gồm không những thành trì Dinh Chiêm, xã Cần Húc, xã Thanh Chiêm mà còn xã Câu Lâu nữa. Dựa theo địa bạ Quảng Nam, chúng tôi sẽ cố gắng toán định diện tích của thuộc Cần Húc.
Tiếp đến chúng tôi sẽ nhờ cậy sự giúp đỡ của sử gia Nguyễn Đình Đầu trong quyển Địa Bạ Quảng Nam viết dưới đời vua Gia Long vào năm 1812[82]. Trong địa bạ, Nguyễn Đình Đầu cho biết địa phận xã Câu Lâu rất rộng (209 ha)[83] và nằm cả hai bên bờ sông Câu Lâu – ông miêu tả rằng sau khi qua khi sông Câu Lâu, địa phận xã Câu Lâu kéo dài qua khỏi bờ nam sông Câu Lâu khoảng “Đường Thiên lý hai đoạn”[84]. Bổ tục thêm vào lời tuyên bố của William Dampier, điều này cho biết xã Câu Lâu sở hữu cả nam và bắc (tả ngạn và hữu ngạn) hai bờ trên sông Câu Lâu.
Bây giờ chúng tôi đặt thêm giả thuyết nói rằng vì toàn thể xã Câu Lâu lệ thuộc Cần Húc mà ngày xưa, địa phận của xã Câu Lâu bao gồm cả hai bên bờ sông Câu Lâu. Vì vậy, kết quả cuối cùng là địa phận thuộc Cần Húc cũng nằm hai bên bờ sông Câu Lâu.
Sau đây chúng tôi sẽ lập lại và dùng gia phả của tộc Nguyễn Văn mà gia đình ông Nguyễn Ngọc Lan[85], người xã Câu Lâu đã cung cấp để chứng minh những điểm chính trong giả thuyết trên là chính xác.
“Câu Lâu xã châu thổ Cần Húc thuộc, Diên Khánh huyện, Uất Lũy tổng, hậu cải Duy Xuyên huyện, Quảng Nam tỉnh”.
Trong phần đầu, gia phả này cho biết xã Câu Lâu lệ thuộc vào “châu thổ Cần Húc thuộc”. Điều này cho thấy trong lịch sử Dinh Quảng Nam, thời các chúa Nguyễn, xã Câu Lâu đã được thành hình, nhưng lệ thuộc vào miền châu thổ Cần Húc. Cách gọi này của Cần Húc nói lên rằng địa thổ Cần Húc ngày xưa rộng lớn và được tạo thành bởi một châu thổ. Hơn nữa, chữ “thuộc” xuất hiện nơi cuối của dòng chữ này nói lên nó là đơn vị hành chánh đặc biệt tương đương với “tổng” bao gồm các làng xã theo đuổi một tiểu công nghiệp truyền thống như nhau trong một huyện, thí dụ như các nghề truyền thống đóng thuyền, may lưới đánh cá, hay dệt tơ lụa, v.v… Trong tính cách nghề nghiệp, chúng ta có thể xét đoán rằng trong quá khứ xa xưa xã Câu Lâu và châu thổ Cần Húc được lệ chung vào “thuộc Cần Húc”. Nhưng khi chúng tôi tìm hiểu thêm về các thuộc dưới các triều đại họ Nguyễn trong các sử sách xưa như Phủ Biên Tạp Lục (1776), Đại Nam Thực Lục Tiền Biên[86], hay Địa Bạ Dinh Quảng Nam (1812), chúng tôi rất thất vọng vì không thể tìm ra được thuộc “Cần Húc” ở bất cứ nơi nào. Thí dụ, vào năm 1776, Lê Quí Đôn cho biết nhà Nguyễn, trong huyện Duy Xuyên, lúc ấy có các thuộc như sau: Chu Tượng (đóng thuyền)[87], Nội Phủ Kim Hộ (đãi vàng)[88], Hoa Châu (dệt vãi lụa)[89], Võng Nhị (làm lưới)[90], Hà Bạc (đánh cá; làm mắm, muối)[91], Thương Nhân Hội (buôn bán)[92], Võng Nhị Phụ Quảng[93], Kiều Cư Lậu Dân[94], Võng Nhị Phúc An[95], Biệt Nạp Hà Hồng[96], Sơn Điền[97], Xuân Xưởng[98], Phụ Nguyên[99], Sỹ Thần[100], Mới Phúc An[101] và Biệt Nạp[102]. Nhưng đến đời vua Gia Long, vào năm 1812, ở huyện Duy Xuyên, ngoài 6 tổng, chỉ còn giữ lại 4 thuộc: Chu Tượng, Hà Bạc, Hoa Châu và Liêm Hộ[103] mà thôi.[104] Riêng huyện Diên Khánh chỉ còn một thuộc mà thôi, đó là thuộc Phú Châu. Đến đời vua Minh Mạng (1791-1841), tất cả các thuộc liên quan đến nghề nghiệp trong các huyện đều bị bãi bỏ. Trở về lại Cần Húc, đến đời vua Tự Đức (1829-1883), Cần Húc xưa kia trở thành xứ Cồn Úc thuộc xã Văn Đông.[105] Riêng xã Câu Lâu, vào năm 1812, trong Địa Bạ Quảng Nam lại thuộc về tổng Mậu Hòa Trung, huyện Duy Xuyên[106] chứ không lệ vào thuộc nào cả. Điều này có nghĩa rằng những dữ kiện trực hệ giữa xã Câu Lâu và xã Cần Húc đước ghi nhận trên gia phả tộc Nguyễn Văn đã xảy ra nhiều năm trước 1812, và có thể xa hơn trong quá khứ trước 1776, vì chính Lê Quí Đôn cũng không biết gì về sự liên quan của hai đơn vị hành chánh Câu Lâu và Cần Húc qua thuộc nghề nghiệp gọi là thuộc Cần Húc. Có lẽ đây là một điều bí mật nghiêm trọng mà khi viết xuống trong sử sách có thể ảnh hưởng đến sự an nguy của Đàng Trong trong cuộc chiến với chúa Trịnh trong thế kỷ 17 và 18 nên các chúa Nguyễn đều giữ bí mật về các xã có liên quan đến thuộc Cần Húc. Vì thế, chúng tôi càng cương quyết muốn tìm ra sự thật về “Cần Húc thuộc” này hơn.
Vậy thì những người dân trong huyện Duy Xuyên có chung một nghề nghiệp gì để chúa Nguyễn gom họ vào trong thuộc Cần Húc? Đó là nghề đúc đồng. Hai chữ Cần Húc, dựa theo nhà nghiên cứu Nguyễn Sinh Duy, là lối phát âm trong tiếng Việt từ “Kan Hu” từ tiếng Chăm và có nghĩa là “lò đúc đồng”.[107] Lối suy luận có vẻ rất đúng lý. Ngoài ra, vào đầu thế kỷ 17, Đàng Trong lúc ấy đang tham dự cuộc chiến với Đàng Ngoài, các chúa Nguyễn nhập cảng nhiều nguyên liệu đồng từ các đồng tiền xu cổ từ nước Nhật Bản hay Trung Quốc để chế tạo các súng thần công dựa theo kỹ thuật của người Bồ Đào Nha. Lúc ấy, lịch sử cho biết lúc ban đầu, Đàng Trong chưa học được kỹ thuật đúc súng đồng từ người Bồ Đào Nha vì hàng năm, các chúa thường gửi hàng vạn tiền xu đồng và nhờ cậy các vị giáo sĩ Dòng Tên mua súng thần công cho họ khi trở về Macao. Nhưng sau này, dưới đời Chúa Nguyễn Phúc Tần (1620-1687), vào khoảng 1658-1661, chúa Hiền đã mời được chuyên gia đúc súng đồng João da Cruz (1610?-1682), người Bồ Đào Nha lai Ấn Độ, về làm việc tại làng Phường Đúc tại Huế.[108] Từ đó, Đàng Trong đã sở hữu kỹ thuật đúc súng đại bác đồng. Sau này, hàng năm, triều đình thường kêu gọi các thuộc đúc đồng từ các huyện gửi các chuyên gia đúc đồng thay phiên nhau ra Huế làm việc trong Phường Đúc ít nhất ba tháng trong năm.[109] Vì thế, suy luận một cách rộng rãi, chúng tôi cho rằng chế tạo súng thần công đồng nặng hơn cả ngàn kg mỗi khẩu cần rất nhiều công sức của các thợ đồng này và João da Cruz để dùng trong quốc phòng chống lại Đàng Ngoài, nên chúng tôi dự đoán, những dự án này cần giữ rất bí mật; ngay cả các danh sách tên của các xã trong thuộc đúc đồng cũng không được viết trong sử sách. Chúng tôi nghĩ, riêng cái tên của “thuộc Đúc Đồng” cũng phải dấu kín và dùng tên Chăm “Cần Húc” (Kan Hu) để che dấu chương trình tối mật khổng lồ này, thay vì dùng một cái tên Hán-Việt. Nếu không, một khi Đàng Ngoài nhận diện ra dự án trọng đại này họ có thể sẽ tìm cách phá hoại. Dựa theo lịch sử, từ đời chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1620-1687), sở dĩ cuộc nam tiến từ Phú Yên đến Hà Tiên và tranh đấu với chúa Trịnh thành công là, chúng tôi nghĩ, cũng nhờ vào sức mạnh của các khẩu thần công chế tạo từ Đàng Trong. Hiện nay, trước cửa bộ quốc phòng ở Bangkok, Thái Lan còn trưng bày hai khẩu thần công đúc ra từ Phường Đúc, gần Huế. Cả hai đều được Phường Đúc và João da Cruz chế tạo vào năm 1667.[110] Vì cơ sở đúc đồng cần không những nguyên liệu như than củi, đồng, đất sét mà còn rất nhiều nước nữa, vì thế, chúng tôi không có gì ngạc nhiên khi nhận ra rằng các cơ xưởng đúc đồng trong huyện Duy Xuyên đều nằm gần các bờ sông như Cầu Mống và Câu Lâu. Khi tập hợp các chi tiết từ Nguyễn Sinh Duy và giả phả tộc Nguyễn Văn, chúng ta mới khám phá ra rằng Cần Húc chính là cái tên của một thuộc mà cũng là địa phận của một châu thổ tên là Cần Húc – vị trí của nó nằm bên bờ bắc sông Cầu Mống, nhìn qua sông bên bên bờ nam là xã Câu Lâu. Còn Câu Lâu chỉ là một gò nổi nằm giữa hai con sông chính Cầu Mống và Câu Lâu và lệ thuộc vào thuộc Cần Húc. Một số người dân trú ngụ tại xã Câu Lâu làm nghề đúc đồng cũng giống như một số dân sống ở xã Cần Húc vậy. Hiện tại, tại phường Điện Phương có hai xưởng đúc đồng còn hoạt động kể từ thế kỷ 17, đó là Làng Đúc Phước Kiều (nằm phía tây bắc thành Dinh Chiêm cũ, gần tuyến đường Thiên Lý xưa) và Đồng Phước Kiều (nằm trên gò nổi Câu Lâu ngày xưa, gần sông Cầu Mống). Điều này cho thấy dữ kiện mà gia phả tộc Nguyễn Văn cung cấp rất đáng tin cậy. Tuy nhiên, càng nghĩ kỹ về dự án đức súng thần công dưới thời các chúa Nguyễn, có lẽ công trình bí mật chế tạo súng thần công bắt đầu dưới đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635)[111] và chấm dứt trong thời chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần. Tuy chưa sưu tầm tài liệu lịch sử nào về chương trình đúc đồng của nhà Nguyễn, chúng tôi cảm thấy giả thuyết của mình khá vững chắc với lập trường căn bản, nhưng hiện tại, ngoài một vài dữ kiện từ lịch sử từ gia phả tộc Nguyễn Văn, chúng tôi chưa nắm thêm được các bằng chứng xác đáng về sự tồn tại của thuộc Cần Húc để công bố cả.
Sau khi cập nhật huyện Điện Bàn thành phủ va sát nhập nó vào Dinh Quảng Nam (1600), chúa Nguyễn Hoàng xây dựng một số cơ sở hành chánh dinh tại Cẩn Húc và thành trì Dinh Chiêm bên bờ sông Chợ Củi, cách Cần Húc khoảng 2 km về hướng tây nam và bổ nhiệm Công Tử Nguyễn Phúc Nguyên làm Trấn Thủ Quan (1602). Thuộc Cần Húc bành trướng về hướng ấy. Dân số bắt đầu nâng cao vì sự thịnh vượng đưa đến từ Hội An. Nằm giữa hai nơi, xã Thanh Chiêm lúc này có lẽ chỉ là một đường phố ngoại ô phụ thuộc về thuộc Cần Húc, lúc đầu chưa có một cái tên và cuối cùng trở thành một làng xã mới[112]. Cuối thế kỷ 18, suốt thời gian gần 30 năm nội chiến, nước Đại Việt hầu như không có một chính quyền trung ương và vì thế, chúng tôi nghĩ, Cần Húc vẫn tiếp tục là lỵ sở của Dinh Quảng Nam, lệ thuộc vào huyện Duy Xuyên cho đến sau năm 1806, sau khi vua Gia Long thống nhất đất nước, ngài chuyển lỵ sở Dinh Quảng Nam về xã Thanh Chiêm, chính thức đổi tên Cần Húc thành Văn Đông và thuyên chuyển các cơ sở và hệ thống hành chánh dinh Quảng Nam về xã Thanh Chiêm (1806).[113] Chúng tôi cho rằng vì Cần Húc sau cuộc nội chiến, dân số thưa thớt; cảnh vật rất điêu tàn.
Nhắc lại xã Câu Lâu, vào năm 1776, Lê Quí Đôn cho biết nó lệ thuộc vào huyện Diên Khánh[114] trước đó. Vì thế, gia phả tộc Nguyễn Văn viết “Diên Khánh huyện” không có gì lạ, nhưng vào năm 1812, địa bạ Quảng Nam cho thấy xã Câu Lâu trở về lại huyện Duy Xuyên[115] và có thể vì thế, gia phả tộc Nguyễn Văn sửa chữa và cập nhật thêm dòng chữ “Hậu cải Duy Xuyên huyện”. Riêng câu “Quảng Nam tỉnh” được viết vào gia phả sau 1832, vì năm ấy, vua Minh Mạng đổi tên trấn Quảng Nam ra Tỉnh Quảng Nam.
Nói tóm lại, chúng tôi cho rằng vào đầu thế kỷ 19, nếu ta đi bộ từ thành Dinh Chiêm nằm sát bờ sông Chợ Củi và tuyến đường Thiên Lý, trên con đường Nguyễn Du xưa về hướng đông bắc, đi được khoảng 2 km trên đường phố mà sau này trong thế kỷ 19 lấy tên là xã Thanh Chiêm (diện tích 121 ha [116]) – hãy chú ý đến phạm vi của xã Thanh Chiêm rất rộng; vào đầu thế kỷ 19, nó bắt đầu từ tuyến đường Thiên Lý chạy dọc theo hướng đông bắc trên đường Nguyễn Du về phía xã Văn Đông; chu vi của xã Thanh Chiêm, dựa theo địa bạ tỉnh Quảng Nam, là khoảng 4,8 km; tiếp đến là xã Văn Đông (diện tích nhỏ lại chỉ còn lại khoảng 5 ha2 sau khi đổi tên từ Cần Húc vào năm 1806[117]) nằm bên bờ bắc sông Cầu Mống.[118] Sau khi qua sông về hướng nam, tiếp đến là gò nổi rộng lớn, nhưng rất hoang vu, đó là xã Câu Lâu (diện tích 209 ha[119]). Dùng Google Map chúng tôi có thể minh định rằng gò nổi Câu Lâu chiếm hầu hết diện tích của xã Câu Lâu (khoảng 190-200 ha); nhưng địa phận phận còn lại (khoảng 10-15 ha) phải nằm bên bờ nam sông Câu Lâu (tạm gọi Nam Câu Lâu) với chiều sâu khoảng “Thiên Lý hai đoạn”[120]. Điều này đã được xác nhận trong Địa Bạ Quảng Nam (1812) và William Dampier kể lại. Vì thế, chúng tôi có thể quả quyết rằng xã Câu Lâu nằm hai bên bờ sông Câu Lâu. Để tìm ra diện tích thuộc Cần Húc, chúng ta sẽ tổng cộng diện tích của 3 xã Thanh Chiêm (1806), Văn Đông (1806) và Câu Lâu (1812) vào với nhau; từ đó, chúng ta sẽ nhận diện ra diện tích và giới phận của thuộc Cần Húc nhắc đến trong gia phả, đó là khoảng 335 ha (3,35 km2). Dùng Google map, chúng tôi vẽ ra sơ đồ của thuộc Cần Húc như sau – Hình 13 (Chúng tôi nghĩ đây cũng là địa dáng tổng quát của thành phố Dinh Chiêm ngày xưa trước năm 1776):
Last updated
Was this helpful?