Phần 5-Barisy tường thuật các trận Chủ Sơn, Thị Nại, Phú Xuân và vua Gia Long vào Huế
Những điểm lộn xộn trong Thực Lục
Thục Lục cho biết trận đánh bắt đầu tử nửa đêm: “Trống canh ba qua Tiêu Cơ, bắt được lính đi tuần của giặc, biết được khẩu hiệu, tức thì sai Nguyễn Văn Trương và Tống Phước Lương dùng thuyền nhỏ lên trước vào Hổ Cơ”. Trước hết, chúng ta không biết rõ Tiêu Cơ và Hổ Cơ ở đâu, nên khó hình dung trận chiến. Nhưng nhờ Barisy, ta có thề hiểu được Thực Lục: Trận đánh bắt đầu từ nửa đêm 28/2/1801, Nguyễn Văn Trương và Tống Phước Lương biết được mật lệnh của Tây Sơn, lẻn vào bên trong cùng của vịnh, là Hổ Cơ, đốt đồn thuỷ của địch. Võ Di Nguy và Lê Văn Duyệt đánh mặt trước. Võ Di Nguy tử trận. Nhưng Thực Lục lại viết: “Duyệt thề chết vẫy quân xông lên, giờ THÂN [15-17 giờ chiều] lọt vào được cửa biển, dùng đuốc hoả chiến thừa chiều gió phóng đánh thuyền đại hiệu của giặc. Quân Tây Sơn cả vỡ, chết rất nhiều. Dũng thua chạy. Thuyền Tây Sơn bị đốt cháy gần hết”.
Chỗ vô lý là đây: Nguyễn Văn Trương và Tống Phước Lương đốt thuyền “giặc” từ trống canh ba (nửa đêm) 28/2, mà đến giờ thân chiều hôm sau, tức là 4-5 giờ chiều ngày 1/3, Lê Văn Duyệt mới vào được cửa biển Thị Nại và đốt các tầu chiến đại hiệu, lúc ấy Võ Văn Dũng mới thua. Vậy trong suốt thời gian từ 12 giờ đêm hôm trước đến 17 giờ chiều hôm sau, trận chiến xẩy ra như thế nào? Theo Thực Lục thì phần cốt yếu xẩy ra ban ngày, vào 4-5 giờ chiều hôm sau, lúc Lê Văn Duyệt dùng hoả công đốt thuyền địch, Võ Văn Dũng mới thua, vậy trận này kết thúc lúc mấy giờ?
Trái hẳn với những tài liệu khác, đều kể trận đánh xẩy ra ban đêm, mà đỉnh điểm là 3-4 giờ sáng. Le Labousse cho biết trận đánh diễn ra từ 10 giờ tối tới 10 giờ sáng hôm sau. Và ông còn cho nhiều thông tin khác, cùng chiều: vua tiến vào cảng lúc rạng đông. Võ Văn Dũng khi trời sáng mới thấy thực trạng quân Nguyễn chẳng có bao nhiêu mà thắng.
Barisy, cũng viết: tới 4 giờ sáng, lửa cháy trên tất cả các chiến hạm và “đến rạng đông, một phần lớn đã nổ trên không với tất cả thuỷ thủ” Chỉ còn lại một số ghe pháo nhỏ, cầm cự được tới 2 giờ rưỡi chiều hôm sau.
Vậy, Thực Lục viết sai, hay là dịch giả Thực Lục dịch sai, hoặc cố tình sửa giờ TÝ thành giờ NGỌ để biến đêm thành ngày?
Thực Lục đặt trận này vào đêm 16 rạng ngày 17 tháng Giêng (tức là đêm 28/2 rạng ngày 1/3).
Barisy đặt trận này vào đêm rằm tháng Giêng, rạng ngày 16 (tức là đêm 27/2/1801 rạng ngày 28/2/1801) sự việc này chưa biết thế nào, cần phải đọ lại với các tài liệu khác. Le Labousse ghi ngày 1/3, vậy có thể Thực Lục và Le Labousse đúng.
Tuy đại thắng thuỷ binh cũa Võ Văn Dũng ở trận Thị Nại 1801, nhưng Nguyễn Vương vẫn không phá được vòng vây của Trần Quang Diệu bao quanh thành Bình Định để giải cứu Võ Tánh và Ngô Tòng Châu cố thủ trong thành. Theo kế của các tướng, Nguyễn Vương đem quân đánh Phú Xuân trước.
Trận Phú Xuân, tóm tắt theo Đại Nam Thực Lục
Ngày 5/6/1801, Nguyễn Vương xuất quân ra cửa Thị Nại.
Ngày 7/6/1801 thuyền vua tới Cù Lao Chàm. Gọi Nguyễn Văn Trương tới Đà Nẵng chờ lệnh.
Sai Tống Viết Phước, Trần Văn Trạc giữ Quảng Nam.
Ngày 8/6/1801, Nguyễn Vương tới Đà Nẵng họp với các tướng, quyết định đánh Phú Xuân theo chiến lược Đặng Đức Siêu: Thuỷ quân tiến làm hai đạo; một vào cửa Eo (cửa Thận An); một vào cửa Tư Dung (tức Tư Hiền).
Ngày 9/6/1801, chia nhiệm vụ: Nguyễn Văn Trương và Phạm Văn Nhơn tiến vào cửa Eo [Thuận An]. Hoàng Văn Tự và Bạch Văn Đoài đem binh voi theo đường bộ Cu Đê. Thuyền vua tiến đóng vũng Chu Mãi.
Ngày 11/6/1801, Nguyễn Vương tiến vào cửa Tư Hiền, Lê Văn Duyệt và Lê Chất tiên phong. Phò mã Tây Sơn Nguyễn Văn Trị và đại đô đốc Trần Văn Tạ giữ núi Quy Sơn, cho đóng cọc gỗ dưới lạch sông để ngăn quân Nguyễn. Quân Tây Sơn ở trên cao bắn đại bác xuống, quân Nguyễn đánh suốt ngày không tiến được. Đến đêm, bèn sai quân ngầm đội mấy chục thuyền chiến, vượt bãi cát vào phá Hà Trung sau lưng địch, chia quân theo đường lạch, nhổ cọc mà tiến.
Ngày 12/6/1801, Nguyễn Vương đốc quân đến bến đò Trừng Hà, Lê Văn Duyệt bắt được phò mã Nguyễn Văn Trị và đô đốc Phan Văn Sách. Nguyễn Văn Trương và Phạm Văn Nhơn tiến vào cửa Thuận An, vua Cảnh Thịnh đem đại quân ra chống đỡ, nhưng chưa đánh, đã bỏ chạy.
Ngày 13/6/1801, Nguyễn Ánh vào Phú Xuân. Cảnh Thịnh chạy ra Bắc (TL; I, t. 440-442).
Trận Phú Xuân, tháng 6/1801, theo Barisy
Ý muốn thuật lại những giờ phút lịch sử mà anh đã sống qua, chính là động cơ thúc đẩy Barisy viết nhanh và viết nhiều trong khoảng thời gia khá ngắn ngủi, sôi nổi kể lại những gì anh đã thấy. Trong lời mở đầu lá thư dài, viết cho các linh mục Marquini và Létondal ngày 16/7/1801, trên tầu Thoai phon Thoai [tầu Thoại Phụng] ngày 16/7/1801, tại Cua Heou [Cửa Hậu hay Cửa Thuận An], Barisy giải thích:
“Thưa các cha,
Tính cờ một thuyền buồm ở Quảng Đông lại đến bến cảng này [Huế], đúng lúc những đoàn quân chiến thắng của Hoàng thượng đến chiếm. Con cháy bỏng lòng ham muốn thuật cho các cha biết những gì đáng kể đã xẩy ra ở đây, từ lúc bắt đầu mở chiến dịch, đã khiến con tìm hết cách giúp ích vị thuyền trưởng thuyền này. Và con nghĩ ông ta đủ biết ơn con, để mang thư này tới tay các cha.
Lá thư cuối cùng con viết ngày 10/5 vừa qua [Cadière cho biết: không tìm thấy thư này] con đã kể cho các cha nghe việc chiếm Đà Nẵng ngày 8/3[1801]: quân đồn trú gồm 30 thớt voi, 84 đại bác đồng đỏ, các kho gạo của địch quân bị cháy cùng nhiều kho quần áo và cả tiền bạc, nhưng đó mới chỉ là sự mở màn trận tấn công lớn của nhà vua”.
Và sau đây là những hàng Barisy viết cho hai vị linh mục về trận Phú Xuân: “Ngày 28/5 quân đội của Tàa Quoun [Tả Quân] mà tôi [từ đây xin dịch là tôi thay vì con]trực thuộc, theo lệnh của Ong foo Thuoon [Ông Phó Tướng, Cadière chú thích theo CI. E. Maitre, Nguyễn Công Thái] đến Quy Nhơn. Hoàng thượng duyệt quân, có 10.900 người thuộc bộ binh: 27 chiến thuyền ga-le, rất nhiều ghe chở đại bác. Quân ta ở lại Quy Nhơn tới 3/6 mới khởi hành đi Đà Nẵng. Vua lãnh đạo cả quân Thủy Bộ, tôi ở dưới lệnh vua, với tư cách thuyền trưởng tầu mang hiệu kỳ thống lĩnh của vua:
Thoai Phâon Toai [tầu Thoại Phụng]
chở 36 đại bác
15 tầu
chở 18 đại bác [đạn nặng] 12 livres
45 chiến thuyền ga-le
chở 1 đại bác, 36 livres
300 ghe nhỏ đại bác
chở 1 đại bác, 4 livres
Trong binh đội này, có 15.000 người thuộc quân đổ bộ, dưới lệnh của các tướng:
Dinh Táa [Dinh Tả, có lẽ là Chánh tả chi Tả quân Bạch Văn Đoài]; Dinh Tiên[Dinh Tiền, có thể là Lê Chất]; Ong Ton Don Tàa [Ông Tổng Đồn Tả tức Lê Văn Duyệt].
Ngày 7/6 chúng tôi đến Đà Nẵng, gặp lại thuỷ binh do ông Yam Quoun [tức Giám Quân Phạm Văn Nhơn, khi đánh trận Thị Nại, Phạm Văn Nhơn được lệnh giữ Cù Mông], ông này đã đi đại sứ ở Âu Châu [chỉ việc Phạm Văn Nhơn tháp tùng Hoàng tử Cảnh và Bá Đa Lộc sang Pondichéry], gồm có:
Thao Loan Phi [Long Phi]
32 đại bác
Chaigneau [điều khiển]
Thao Baon fi [Bằng Phi]
26 đại bác
Forsan [de Forcant]
Thoo Fhoan [Phượng Phi]
26 đại bác
Vannié [Vannier]
3 tầu chở 18 đại bác, 12 livres
30 ghe chở 1 đại bác
Tóm lại, theo bảng trên của Barisy, đại binh từ Quy Nhơn kéo ra Đà Nẵng gồm hai phần: Phần đi từ Thị Nại, có vua ngự trên tầu Thoại Phụng, mà Barisy cũng có mặt trên tầu. Đến Đà Nẵng gặp lại phần thủy binh đi từ Cù Mông, do Phạm Văn Nhơn điều khiển, có các tầu đại hiệu Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi. Đại binh này, sẽ họp với thủy binh của Nguyễn Văn Trương và đô đốc Hoàng Văn Tự, vừa thắng trận Đà Nẵng tháng 3-5/1801, rồi chia làm ba đạo đi đánh Phú Xuân: Hoàng Văn Tự và Bạch Văn Đoài đem binh và voi đi đường bộ Cu Đê. Thuỷ binh chia làm hai đạo, vào cửa Thuận An và cửa Tư Hiền, Barisy mô tả trận thuỷ chiến, như sau:
4 giờ sáng ngày 9/6, toàn bộ binh đội xuống tầu [ở Đà Nẵng].
8 giờ sáng ngày 11, chúng tôi đến cửa sông Hương, vào tầm súng của đại bác các đồn phòng thủ cửa sông. Quân đội được lệnh chia hai: Tất cả những tầu chiến và 30 ghe chở đại bác họp thành một đội ngũ dưới lệnh ông Yam Quoun [Phạm Văn Nhơn] phong toả cửa Tây, có tên là Cua Heou[2]. Cửa Đông có tên là Cua Ong[Cửa Tư Hiền] do vua và các tướng nói ở trên [tức Lê Văn Duyệt và Lê Chất]tấn công; dưới lệnh có 45 chiến thuyền ga-le; 300 ghe chở đại bác, và 15.000 quân đổ bộ.
5 giờ sáng ngày 12, những chiến thuyền ga-le được lệnh dàn quân làm ba hàng, giữa các hàng là ghe nhỏ chở đại bác, tiến vào Cửa Ông; khi tiến đến giữa tầm đại bác, bị ba đồn phòng vệ khạc lửa vào, họ chịu trận, không chống trả, cho tới khi đạt tới cửa sông; chỗ này đã rất cạn lại còn bị địch lấp thêm nhiều vật liệu khác nhau, nhất là nhiều cọc nhọn và sà ngang; cho nên ga-le và ghe đại bác bị chặn lại, không thể tiến thoái được. Địch quân mừng quýnh, càng bắn dữ; bấy giở vua thấy nguy cơ trước mắt, mới ra lệnh cho quân nhẩy xuống nước lội vào bờ dưới làn súng đại bác đồn địch bắn ra. Những chiến thuyền ga-le dù bị mắc cạn cũng bắn trả dữ dội để những ghe nhỏ chở đại bác may mắn trườn qua chỗ bị ngáng.
Tướng chỉ huy, là chồng của em vua ngụy, đóng trong đồn phòng thủ với 10.000 quân tinh nhuệ, tên là Ong Foo Matthey [Ông Phò Mã Trị (Nguyễn Văn Trị)].Tính tụ phụ làm tăng tốc sự thua trận của ông. Từ trên thành, nhìn thấy sự thảm bại của đội ngũ chúng tôi; ông tưởng ông chỉ cần ra chụp lấy chúng tôi như ta bắt đàn cừu trong vườn; chẳng may người công dân đại tướng khốn khổ lại bị thọp cổ; ra khỏi thành 500 toises [khoảng gần một cây số], ông đụng đầu với quân Cấm Vệ (Gardes du corp) tức là quân Theuk Teuk [quân Túc Trực của Lê Văn Duyệt], họ dùng lưỡi lê ở đầu súng đột kích ông một cách quyết liệt. Những toán lính khác, trước ở trên ga-le, tiến đến bên sườn và sau lưng ông. Ông bị bao vây tứ phiá, không có cách nào tiếp cận được với trong thành. Quân của ông cũng nhìn thấy cảnh ấy. Lính của chúng tôi dữ dội xông vào với sự hung hăng kịch liệt. Không có cách nào thoát được, ông kêu tha chết, nhưng người lính say sưa chém giết chẳng nghe thấy gì, kể cả lệnh trên. Phải khó nhọc lắm mới kéo được con mồi ra khỏi tay anh ta. Ông tướng Phò Mã Trị bị bắt sống đem đến trình diện vua, vua truyền sai đóng xích sắt.
Tất cả ngày hôm đó chúng tôi sửa soạn để tấn công những thành đồn khác, phiá trong sông. Bên địch có 7 tầu thuộc đội ngũ 65 tầu từ Bắc đem vào, đã cập bến đêm mùng 10. Những tầu khác thấy đậu ở cách quân chúng tôi hai dặm nhưng chạy nhanh nên thoát được.
Ngoài ra, họ còn có 10 tầu và 14 chiến thuyền ga-le; rất nhiều ghe đại bác, dưới lệnh của Tua Maa Noe [Tư Mã Nguyễn Văn Tứ?], có đầy người. Chúng tôi ở trên đài cao dựng trên cột buồm với kính viễn vọng nên có thể phân biệt được diện mạo những tác nhân chính.
Bấy giờ là 10 giờ sáng. Khi quân tiền vệ của chúng tôi gồm những ghe đại bác dưới sự điều khiển của Vệ uý vệ Phấn Dực [fan Vieuk, chú thích của Cadière, chép theo Cl. E. Maitre], [chắc là Tống Phước Lương, vì lúc đó ông là Vệ uý vệ Phấn Dực Trung Quân, TL, I, t. 432] bắt đầu tiến vào tầm đại bác của họ. Hạm đội của họ thả neo theo hình lưỡi liềm được giàn đại bác gài chéo nhau che chở. Chiến thuyền ga-le của chúng tôi từ từ tiến vào, vừa đi vừa dò dẫm vì không biết rõ lòng sông; lúc thủy triều xuống, cạn hẳn.
Chúng tôi thấy các ghe đại bác bên địch bắt đầu chuyển động, và phân biệt được 27 ghe đang tiến về phiá chúng tôi. Tướng địch, mà người ta nhận ra nhờ ghe của ông có quốc kỳ lụa đỏ treo trên cột trước, không ngừng phất phới để khích lệ ba quân. Nhưng sự kinh hoàng đã tiến trước vua: ông Vệ uý vệ Phấn Dực không bắn súng báo hiệu, chợt đột kích xông vào tất cả các ghe đại bác của địch cùng một lúc. Bấy giờ chúng tôi sống một trận chiến ngắn nhưng thật đẫm máu: các đồn, tầu và các chiến thuyền ga-le nhất loạt cùng bắn, không phân biệt bạn thù. Nhưng chỉ trong 5 phút, chúng tôi đã thấy cờ vàng phất phới thay thế cờ đỏ. Trong khoảnh khắc này, đoàn chiến thuyền ga-le và ghe đại bác của ta đã đến và chúng tôi xung phong tiến lên tầu, thuyền địch, rồi đổ bộ xông vào thành luỹ đánh giáp lá cà. Tới chính ngọ, một sự im lặng ngự trị toàn thể. Lửa trên các chiến hạm của địch làm thành một cảnh tượng bi tráng. Bãi cát đối diện với chỗ chúng tôi thả neo, người chạy trốn lấp đầy không gian mà tầm nhìn có thể đạt được.
Nhà vua đã ngược dòng sông với toàn bộ quân đội. Ba giờ chiều, người đạt tới bến kế cận cung điện của tổ tiên. 10 [đại biểu] dân tộc quỳ gối trên bờ sông, có vẻ chờ đợi sự phán quyết mà vì vua chiến thắng sẽ tuyên bố. Một sự im lặng trọng đại bao trùm. Hồi tưởng lại những xúc phạm và nhục mạ trong quá khứ, gây mối kinh hoàng, khiến họ không thể yên lòng. Vì thế cho nên, họ đã thực tình kinh ngạc, khi thay vì thấy một kẻ chiến thắng, nổi giận bước xuống thành phố của họ; họ lại nhìn thấy một Henry IV, một người cha khoan dung, và nhân từ. Sự thanh tịnh và lòng tốt khắc trên trán nhà vua là điềm báo cho họ biết những gì sẽ chờ đợi họ trong tương lai. Tất cả quân đội tham chiến, trong sự im lặng sâu lắng nhất, đợi lệnh vua. Đến 6 giờ chiều, Hoàng thượng ra lệnh cho tất cả quân đội phải lên tầu và chính người cũng lên tầu của người để ngủ; sau khi đã chỉ định các đội canh gác tất cả các khu trong thành phố, cấm cướp bóc, vi phạm sẽ bị tử hình.”
Vua Gia Long vào kinh đô Huế
Barisy viết tiếp:
“8 giờ sáng ngày 15/6/1801, (tháng thứ 5, Cảnh Hưng thứ 62; năm thứ 27, ngụy triều Wandoé [Nguyễn) Văn Huệ], còn được mệnh danh là Tais Shon hay Teschon[Tây Sơn], có nghiã là gia đình ở trên núi [Tây]), cháu của vị chúa sau cùng [tức Định Vương Nguyễn Phước Thuần], con người em của chúa [Nguyễn Ánh là con anh của chúa], đặt chân đến kinh đô Nam Hà.
Nhà vua không vào cung điện mà ngồi ở một phòng tiếp kiến bên ngoài, nơi dân chúng có thói quen tụ họp để hy vọng được thấy vua những ngày thiết triều.
Chính ở trong phòng này, 8 giờ sáng, tôi nhìn thấy vua. Vô số quần chúng đủ mọi hạng người, mọi tuổi, quây quần bên ông. Quân canh gác sơ sài, không mang khí giới, đứng cách quân vương khá xa. Thấy tôi, vua gọi lại, hỏi thăm tin tức Chaigneau… (Chaigneau bị đau từ mấy ngày nay), tôi kể chuyện này để thấy tấm lòng của nhà vua.
Sau đó, Hoàng thượng hỏi xem tôi đã thấy các tướng địch chưa. Tôi trả lời chưa. Người ra lệnh dẫn dẫn tôi đến gặp họ, sau đó người bảo tôi lại thăm các em của vua Ngụy. Tôi đi ngay. Họ ở trong một phòng nhỏ khá tăm tối, không có gì là lịch lãm, điều này càng làm tăng sự tương phản như đập vào mắt giữa quá khứ và hiện tại của họ. Con số những công nương là 5. Một cô trạc tuổi 16 tôi thấy rất xinh đẹp. Một cô nhỏ độ 12 tuổi, con gái công chúa Bắc Hà[3], cũng thường thôi; ba cô khác từ khoảng 16 đến 18, da ngăm ngăm nhưng diện mạo dễ coi; ba cậu con trai, một cậu 15 tuổi, da cũng ngăm ngăm, nét mặt tầm thường; hai cậu khác cũng trạc 12 tuổi, con công chúa Bắc Hà, diện mạo khôi ngô, điệu bộ dễ thương.
Sau cuộc đi thăm ngắn ngủi này, tôi được dẫn đến một nhà tù khác, ở đó tôi thấy Mad Theẽu Do’an [Bà Tư Đồ], vợ tướng thủy binh của địch mà nhà vua đã đốt[thuyền, tầu] ở Quy Nhơn [tức Bà Võ Văn Dũng]. Bà này đẹp, vẻ hiền hậu và lịch sự. Mẹ của ông tướng này tuổi khoảng từ 45 đến 50. Bà nói chuyện rất lâu với tôi và kêu than số phận rủi ro của bà.
Trong một nhà tù khác, gần đấy, giam, mẹ của tướng Thieuu Phoo [Thiếu Phó Trần Quang Diệu] thống lãnh quân đội hãm thành Quy Nhơn. Bà trạc độ 55 tuổi. Một khuôn mặt cao quý trong sự bất hạnh, bà tỏ ra cương nghị, chính trực mà không kiêu hãnh.
Sau đó đến vợ của ông tướng foo Maatthey [Phò Mã Nguyễn Văn Trị], bà là em gái của vua Ngụy, và cũng là một chiến sĩ. Bà Theuk hauv Dinh [Tư Khấu Định, chú thích Cadière, theo Cl. E. Maitre] vợ của tướng Pháo binh.
Bà Ton Lin Keen [?], vợ của Phó Thống Lĩnh thuỷ quân, vv và vv… nhiều lắm, trong đầu phải có cuốn lịch sách mới nhớ lại được.
Nhà vua đã thả tất cả nhà cửa của các quan, tướng địch cho cướp bóc. Tôi rất tức giận chuyện này; vì bọn lính đã đập phá tất cả những gì dưới tầm tay của chúng, có những dinh cơ, tuy làm theo lối Tầu, nhưng đối với Paris có thể là một lâu đài tráng lệ, với vườn cảnh, trồng đầy cây lạ, những bình sứ Nhật Bản. Sự trả thù của nhà vua dẫn đến kết quả như thế”. (Thư Barisy viết cho Marquini và Létondal, trên tầu Thoại Phụng, ngày 16/7/1801, BAVH, 1926, IV, t. 400-406).
Barisy là một trong những người, nói đúng hơn, là người duy nhất đã viết kỹ, viết rõ, với văn tài bẩm sinh, về những ngày lịch sử này. Anh không chỉ làm sống lại các trận chiến như bầy ra trước mắt, mà còn cho thấy khiá cạnh nhân văn, về con người, về sự ứng xử của họ trước mọi tình thế. Gia Long đạt tới chiến thắng cuối cùng trong lúc bi kịch cá nhân của ông có những mất mát kinh hoàng không kém trận điạ, trong năm 1801: hoàng tử Cảnh hiền lành, mất trên giường bệnh; hoàng tử Hy dũng mãnh, biệt hiệu Ông Búa, mất trong khi hành quân, cách nhau hai tháng. Các mãnh tướng: Võ Di Nguy tử trận, Võ Tánh tử tiết. Học giả Ngô Tòng Châu uống thuốc độc. Gia Long đem Minh Mạng mới chín tuổi, đi theo, trong cuộc hành quân định mệnh từ Gia Định ra Huế, để học nghề làm vua, đúng theo truyền thống các chúa Nguyễn. Chiến thắng của Gia Long nhuốm mầu cay đắng. Sự trả thù của ông trên toàn thể gia đình Tây Sơn sau này, mà Barisy, mới chỉ nhìn thấy màn đầu, đã nói lên cái nhỏ của một vì vua lớn.
——————————
Chú thích:
[1]Tức Thiếu Phó Trần Quang Diệu, thực ra thuỷ quân Tây Sơn ở dưới lệnh của Tư đồ Võ Văn Dũng. [2] Cửa Hậu, Cửa Eo hay cửa Thuận An, theo Thực Lục thì Phạm Văn Nhơn và Nguyễn Văn Trương tấn công của Eo. [3] Ngọc Hân công chúa.
Theo THỤY KHUÊ
Last updated
Was this helpful?