HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM HƯỚNG DẪN TỔNG QUÁT VIỆC DẠY GIÁO LÝ TẠI VIỆT NAM 2017
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM HƯỚNG DẪN TỔNG QUÁT VIỆC DẠY GIÁO LÝ TẠI VIỆT NAM 2017
1 DẪN NHẬP DẪN NHẬP
Năm 1997, Bộ Giáo Sĩ đã ban hành bản Hƣớng Dẫn Tổng Quát Việc Dạy Giáo Lý (HDTQ 97) và ƣớc mong các Hội Đồng Giám Mục cũng soạn những bản văn định hƣớng tƣơng tự, nhằm đáp ứng nhu cầu dạy giáo lý tại các quốc gia của mình1. Năm 2010, Đại Hội Dân Chúa cũng “mong mỏi sớm có đƣợc những nguyên tắc, đƣờng hƣớng và chƣơng trình chung, cũng nhƣ một thủ bản chung về giáo lý, vừa trung thành với Tin Mừng vừa gần gũi với văn hóa Việt Nam”2. Nhằm đáp ứng đề nghị và ƣớc vọng trên, chúng tôi xin gửi đến quí linh mục, tu sĩ, chủng sinh, giáo dân, cách riêng các cha xứ trong các giáo phận, bản Hƣớng Dẫn Tổng Quát Việc Dạy Giáo Lý tại Việt Nam.
Bản Hƣớng Dẫn này đƣa ra những định hƣớng tổng quát cũng nhƣ những hƣớng dẫn thực hành cho việc tổ chức các hoạt động giáo lý tại Việt Nam, nhằm canh tân việc dạy giáo lý và cổ võ sự hợp tác giữa các giáo phận3.
Nội dung Bản Hƣớng Dẫn gồm ba phần chính: phần thứ nhất trình bày thực trạng xã hội và huấn giáo tại Việt Nam, để nhận ra nhu cầu cần đổi mới trong lãnh vực này dƣới ánh sáng của Lời Chúa; phần thứ hai đƣa ra những định hƣớng dựa trên truyền thống dạy giáo lý tại Việt Nam, HDTQ 1997 và Thƣ Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010; phần thứ ba đề ra những nguyên tắc hƣớng dẫn thực hành về việc Dạy Giáo Lý (DGL), đào tạo Giáo Lý Viên (GLV), soạn thảo Sách Giáo Lý và tổ chức các hoạt động giáo lý.
Chúng tôi ƣớc mong tài liệu này đƣợc đón nhận và áp dụng trong các giáo xứ, các cộng đoàn, theo sự hƣớng dẫn cụ thể và thích hợp của Giám mục giáo phận, để các hoạt động trong lãnh vực dạy giáo lý mang lại nhiều hoa trái tốt đẹp. 2 PHẦN THỨ NHẤT PHẦN THỨ NHẤT BỐI CẢNH BỐI CẢNH "Ngƣời gieo giống đi ra gieo giống. Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nó mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả: hạt thì đƣợc ba mƣơi, hạt thì đƣợc sáu mƣơi, hạt thì đƣợc một trăm." (Mc 4,3.8)
Chúng tôi xác tín rằng Chúa Giêsu hôm nay vẫn đang hiện diện trong Hội Thánh bằng Thánh Thần của Ngài và qua sứ vụ của Hội Thánh, Ngài vẫn tiếp tục công cuộc Loan Báo Tin Mừng (LBTM) trên cánh đồng thế giới, cách riêng trên mảnh đất quê hƣơng Việt Nam. Để tiếp nối công cuộc LBTM của Chúa Giêsu, Hội Thánh tại Việt Nam cũng đƣợc mời gọi nhìn vào thực trạng xã hội và thực trạng của việc dạy giáo lý bằng cái nhìn của Chúa Giêsu, để chia sẻ niềm vui và hy vọng, ƣu sầu và lo lắng của ngƣời Việt Nam, để nhận ra những thách đố và cơ hội cho việc canh tân dạy giáo lý trong bối cảnh xã hội Việt Nam hôm nay. I. THỰC TRẠNG XÃ HỘI Về dân số
Năm 2016, Việt Nam có hơn 95 triệu ngƣời4, đa số là giới trẻ trong độ tuổi từ 15 đến 39, chiếm 43.7% dân số cả nƣớc. Tỉ lệ này cho thấy cứ hai ngƣời lao động mới có một ngƣời phụ thuộc (trẻ em dƣới 15 tuổi và ngƣời già trên 65 tuổi)5. Với quy mô dân số này, Việt Nam xếp thứ 14 trong các nƣớc đông dân nhất thế giới và xếp thứ 3 về quy mô dân số ở các nƣớc Đông Nam Á6. 3 Vì thế, chính quyền nỗ lực kiểm soát dân số bằng những biện pháp khác nhau, trong đó phải kể đến việc triệt sản, ngừa thai, phá thai vv… Hơn nữa, Việt Nam đang bị mất cân bằng giới tính ở mức báo động đỏ. Tỉ số giới tính của trẻ em mới sinh năm 2016 là 113,4 bé trai/100 bé gái7, tăng so với mức 112,8 bé trai/100 bé gái của năm 20158. Tình trạng chuyển giới và đồng tính có xu hƣớng gia tăng. Thực trạng này đòi hỏi chúng ta phải quan tâm đến ngƣời trẻ và huấn luyện cho họ về các vấn đề nhƣ tôn trọng và bảo vệ sự sống, ý nghĩa và giá trị của phái tính, hôn nhân và gia đình. Về kinh tế
Hiện nay Việt Nam đang hòa nhập vào tiến trình toàn cầu hóa, cụ thể qua việc tham gia các tổ chức trong khu vực nhƣ khối Các Nƣớc Đông Nam Á (ASEAN) và các tổ chức quốc tế nhƣ Tổ Chức Thƣơng Mại Thế Giới (WTO). Việt Nam thu hút đầu tƣ của các tập đoàn kinh tế trong và ngoài nƣớc với những kỹ thuật hiện đại, tạo thêm công ăn việc làm cho dân chúng, làm cho đất nƣớc mang dáng dấp một quốc gia đang phát triển. Nền kinh tế thị trƣờng phần nào đã giúp cho đất nƣớc phát triển, ngƣời dân đƣợc tiếp cận với những thông tin và thành quả đa dạng về khoa học kỹ thuật, mở ra những cơ hội cho một phong thái làm việc mới9. Tuy nhiên, chủ trƣơng tập quyền của chính quyền Việt Nam, những chính sách bất cập và luật pháp chƣa nghiêm minh, quy chế ƣu đãi cho một thiểu số đặc quyền, nạn tham nhũng gia tăng, v.v... tạo nên lối sống ích kỷ, đùn đẩy trách nhiệm và thiếu quan tâm đến công ích10. Trong 6 tháng đầu năm 2016, cả nƣớc có 201.800 gia đình đói nghèo, tăng 9,9% so với cùng kỳ năm 2015, tƣơng ứng với 832.600 ngƣời đói nghèo, tăng 10,1%11. 4 Sự phát triển kinh tế không đi đôi với chính sách an sinh xã hội, dẫn đến sự chênh lệch giàu nghèo ngày một tăng, gây bất công và bất ổn. Làn sóng di dân đến các thành phố lớn trong nƣớc ngày một gia tăng. Sự phát triển kinh tế cũng không chú trọng đến việc bảo vệ môi trƣờng, gây ra nhiều thảm họa. Thực trạng này đặt ra các vấn đề nhƣ đạo đức và lƣơng tâm, dấn thân xây dựng xã hội công bằng, bảo vệ môi trƣờng, đối thoại với ngƣời nghèo, tạo điều kiện cho di dân tham gia vào đời sống và sinh hoạt của xã hội và Hội Thánh12. Về chính trị
Từ năm 1975, nƣớc Việt Nam thống nhất dƣới quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản, với hệ thống chính trị gồm Đảng - Nhà Nƣớc - Mặt Trận. Hiến pháp khẳng định “Đảng Cộng sản Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tƣ tƣởng, là lực lƣợng lãnh đạo Nhà nƣớc và Xã hội”13. Công cuộc đổi mới đất nƣớc của chính quyền từ năm 1986 giành đƣợc nhiều thành quả đáng kể về kinh tế, xã hội và văn hóa14. Hiến pháp năm 2013 đã thừa nhận một số quyền căn bản của con ngƣời. Tuy nhiên, sự độc quyền lãnh đạo của Đảng dẫn đến tình trạng lạm quyền, tham nhũng, bất công, thiếu tôn trọng quyền con ngƣời15. Bối cảnh chính trị thúc bách chúng ta tôn trọng phẩm giá và các quyền của con ngƣời, sống và loan báo Tin Mừng một cách triệt để hơn, chú trọng đến việc đối thoại với ngƣời vô thần. Về giáo dục
Việt Nam đã đạt những thành tựu nhƣ: nhu cầu mở mang kiến thức của ngƣời dân đƣợc đáp ứng tốt hơn; đạt đƣợc một số kết quả quan trọng trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài; chính sách xã hội về giáo dục đã đƣợc 5 thực hiện tốt hơn và có hiệu quả hơn; chất lƣợng giáo dục đã có chuyển biến tích cực bƣớc đầu, và điều kiện bảo đảm phát triển giáo dục đƣợc tăng cƣờng. Tuy nhiên, chất lƣợng và phƣơng pháp giáo dục so với mặt bằng chung của thế giới và ngay cả một số nƣớc trong khu vực còn yếu kém, chậm đổi mới và thiếu trung thực trong việc đánh giá kết quả; các điều kiện phát triển giáo dục còn nhiều bất cập, chƣa chú trọng đến việc phát triển con ngƣời toàn diện, chƣa chú ý đến việc phát huy tƣ duy độc lập và sáng tạo của học viên16. Do đó, phát triển con ngƣời toàn diện và toàn vẹn phải là mối quan tâm hàng đầu của việc dạy giáo lý. Về văn hóa
Ngƣời Việt Nam có truyền thống văn hóa lâu đời17, luôn đề cao các giá trị tinh thần và đạo đức nhƣ uống nƣớc nhớ nguồn, thờ cha kính mẹ, tình nghĩa gia đình, tình làng nghĩa xóm, tôn sƣ trọng đạo, trọng tín nghĩa, khảng khái, chân thành, thậm chí sẵn sàng chết vì lòng trung nghĩa, đoàn kết hào hùng chống ngoại xâm. Tuy nhiên, hiện nay đang có những dấu hiệu cho thấy các giá trị truyền thống bị khủng hoảng, nảy sinh nhiều hiện tƣợng bi thảm về đạo đức, văn hóa và xã hội nhƣ giả dối, lừa lọc, tàn nhẫn…; nhiều ngƣời trẻ choáng ngợp trƣớc vẻ quyến rũ của xã hội tiêu thụ nên sống buông thả. Bối cảnh văn hóa này đòi hỏi việc dạy giáo lý phải quan tâm đến việc hội nhập văn hóa. Về tôn giáo
Việt Nam vốn là một xã hội đa tôn giáo nên tôn giáo tại Việt Nam mang tính tổng hợp, hội nhập và tiếp biến, điển hình là sự 6 khai sinh các tôn giáo bản địa nhƣ Cao Đài (1926)18 và Phật giáo Hòa Hảo (1939)19. Bên cạnh tín ngƣỡng dân gian, nhƣ niềm tin vào Ông Trời, thờ kính Ông Bà Tổ Tiên, đời sống tâm linh và nhân sinh quan của ngƣời Việt còn mang đậm dấu ấn của Tam giáo, đặc biệt là Phật giáo20. Công giáo chỉ là thiểu số, chiếm 7,08% dân số cả nƣớc21. Sau năm 1975, chủ nghĩa vô thần đƣợc nhà nƣớc cổ võ. Khuynh hƣớng xem tôn giáo nhƣ một thứ “văn hóa tâm linh” ngày càng đƣợc quảng bá nơi các phƣơng tiện truyền thông xã hội lẫn một số tôn giáo. Các lễ hội dân gian và nhiều hiện tƣợng mang tính tâm linh ngoại thƣờng22 đang bùng phát khắp nơi, cùng với giai đoạn “mở cửa”, di dân và bùng nổ thông tin23. Bối cảnh của một xã hội đa tôn giáo và xu hƣớng giản lƣợc tôn giáo vào nhu cầu “giãn xả tinh thần” của con ngƣời có thể dẫn đến tâm thức tƣơng đối hóa tôn giáo, “đạo nào cũng là đạo”, thậm chí việc có đạo cũng chỉ là một trong những nhu cầu bình thƣờng của con ngƣời. Tâm thức này chắc chắn ảnh hƣởng trên cách sống đạo của ngƣời tín hữu, vì thế việc dạy giáo lý phải giúp cho ngƣời ta hiểu và xác tín về niềm tin của mình. II. THỰC TRẠNG VIỆC DẠY GIÁO LÝ Về mục tiêu
Việc dạy giáo lý tại Việt Nam chú trọng nhiều đến việc trình bày nội dung đức tin một cách đầy đủ và có hệ thống, đến việc học thuộc lòng một số kiến thức đức tin, đủ để lãnh nhận các Bí tích khai tâm và Hôn Phối. Tuy nhiên, việc dạy giáo lý chƣa chú trọng nhiều đến chiều kích tƣơng quan mật thiết cá vị với Thiên Chúa; chƣa giúp ngƣời thụ giáo có khả năng phân định đâu là 7 thánh ý Chúa trong hoàn cảnh thực tế của cuộc sống; chƣa chú trọng đến việc huấn luyện thƣờng xuyên cho các đối tƣợng khác nhau, giúp họ ngày một trƣởng thành hơn trong đức tin. Về nhiệm vụ
Việc dạy giáo lý tại Việt Nam quan tâm đến việc giúp các tín hữu hiểu biết đức tin, nhƣng chƣa chú trọng đến việc lắng nghe, đón nhận và thực thi Lời Chúa dạy; chƣa giúp học viên giáo lý tham gia các cử hành phụng vụ một cách ý thức và tích cực, chƣa giúp học viên có đƣợc thói quen đạo đức trong đời sống hằng ngày. Hơn nữa, việc dạy giáo lý gần nhƣ lãng quên việc giúp các tín hữu tích cực tham gia và xây dựng đời sống cộng đoàn kitô hữu, quan tâm đến các vấn đề xã hội và góp phần kiến tạo công ích dựa theo ánh sáng Tin Mừng, cổ võ tinh thần sống Tin Mừng trong đời sống thƣờng ngày và thúc đẩy dấn thân cho việc truyền giáo. Về phương pháp
Phần đông các giáo xứ và cộng đoàn dạy giáo lý theo phƣơng pháp hỏi-thƣa, một số ít theo phƣơng pháp trình bày. Trong việc truyền đạt đức tin, cách thức chủ yếu là dạy dỗ, bảo ban từ trên xuống, còn cách thức tạo điều kiện cho học viên giáo lý mở lòng đón nhận Mạc Khải và diễn tả niềm tin cũng nhƣ cách “đồng hành thiêng liêng” vẫn ở vào hàng thứ yếu. Tại một số nơi, việc dạy giáo lý vẫn áp dụng cách thuyết giáo khô khan, chƣa chọn đƣợc một hình thức sƣ phạm và phƣơng pháp phù hợp24. Về tổ chức
Phần đông các linh mục, tu sĩ và các giáo dân có khả năng trong các giáo xứ đều coi trọng việc giáo dục đức tin và tích cực tham gia vào việc dạy giáo lý với tinh thần tự nguyện; nhiều 8 giáo lý viên giáo dân phục vụ cho việc huấn giáo nhƣ những thiện nguyện viên trong một thời gian lâu dài. Tuy nhiên, tại một số giáo phận chƣa hình thành đƣợc Ban Giáo Lý nhằm tổ chức, điều động và hỗ trợ cho việc phát triển nhân sự cũng nhƣ các hoạt động giáo lý; hoặc đã hình thành nhƣng chƣa hoạt động hiệu quả. Giáo lý viên giáo dân chƣa đƣợc quan tâm và hỗ trợ đúng mức về mặt tinh thần cũng nhƣ vật chất, đặc biệt trong việc đào tạo, nhằm giúp họ có những khả năng và điều kiện cần thiết để đảm nhận nhiệm vụ dạy giáo lý. Về đối tượng
Việc dạy giáo lý chú trọng đến các đối tƣợng nhƣ các em thiếu nhi, những ngƣời dự tòng và các đôi chuẩn bị lãnh Bí tích Hôn Phối. Tại một số nơi, anh chị em dân tộc thiểu số cũng đƣợc quan tâm hơn trong việc học hỏi giáo lý và đào sâu đức tin, thể hiện qua các ấn bản giáo lý bằng tiếng dân tộc và việc đào tạo giáo lý viên địa phƣơng. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng việc dạy giáo lý của chúng ta chƣa quan tâm đến việc nuôi dƣỡng và phát triển đức tin cho các đối tƣợng Kitô hữu khác, nhƣ ngƣời trẻ, ngƣời lớn, những ngƣời có hoàn cảnh đặc biệt, những ngƣời di dân, những tân tòng, những ngƣời sống trong ơn gọi gia đình và những ngƣời nguội lạnh không thực hành đức tin. Về môi trường
Các gia đình và giáo xứ phần đông còn giữ đƣợc tinh thần đạo đức truyền thống; đây là môi trƣờng thuận lợi cho việc nuôi dƣỡng và làm triển nở đời sống đức tin của các tín hữu. Các bậc làm cha mẹ vẫn còn khuyến khích và hỗ trợ con cái tham gia dạy và học giáo lý. 9 Tuy nhiên, nếu xét kỹ hơn thì việc dạy giáo lý chƣa đƣợc quan tâm đúng mức trong môi trƣờng gia đình và giáo xứ: trong gia đình, cha mẹ chƣa ý thức và tích cực đủ trong việc giáo dục đức tin cho con cái25, trong giáo xứ, việc dạy giáo lý chỉ là việc của giáo lý viên hơn là của toàn thể cộng đoàn26. Ngoài ra, việc dạy giáo lý còn thu hẹp trong khuôn khổ của “lớp học”, chƣa mở rộng tầm nhìn đến các vấn đề của cộng đoàn và chƣa vƣơn tới các môi trƣờng xã hội, để nhận diện những vấn nạn của thời đại và tìm ra câu trả lời phù hợp với giá trị Tin Mừng27. III. NHẬN ĐỊNH CHUNG
Khi nhìn vào bối cảnh trên, chúng ta thấy việc hòa nhập vào tiến trình toàn cầu hóa, cụ thể là việc hội nhập kinh tế thế giới, không chỉ mang lại cho đất nƣớc những cơ hội mới, nhƣng còn mang lại những thách thức mới. Tiến trình này không chỉ biến đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế-xã hội, nhƣng còn biến đổi sâu xa lối tƣ duy và lối sống của ngƣời dân. Não trạng thế tục đang len lỏi vào đời sống đức tin của các tín hữu, một não trạng muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời sống cá nhân, gia đình và xã hội. Tuy nhiên, họ cũng nhận ra nơi tận đáy lòng một sự trống rỗng to lớn đi kèm với một nỗi khát khao cần đƣợc lấp đầy bằng chân lý và tình thƣơng của Thiên Chúa. Trong khi ngƣời tín hữu khát khao mạch nƣớc trong lành đem lại sự sống, thì việc dạy giáo lý dƣờng nhƣ chỉ cung cấp cho họ những giáo thuyết khô khan, thiếu sống động, thiếu sức mạnh và thiếu sức hấp dẫn28. 10 Vì thế, thách đố lớn nhất của việc huấn giáo tại Việt Nam là chuyển trọng tâm từ việc huấn luyện duy kiến thức sang việc xây dựng mối tƣơng quan thân tình với Thiên Chúa và tha nhân.
Gắn liền với xã hội tục hóa là xã hội tiêu thụ. Trong xã hội này, con ngƣời bị mê hoặc bởi lối sống hƣởng thụ và ích kỷ, vứt bỏ mọi nỗ lực tìm kiếm và thực hành những giá trị nhân bản và tôn giáo; kết cuộc là đạo đức suy thoái, lƣơng tâm bị coi rẻ và nhân phẩm bị xúc phạm. Sự chuyển biến xã hội này đang ảnh hƣởng mạnh mẽ và sâu xa đến đời sống đức tin của ngƣời tín hữu; thế nhƣng, việc dạy giáo lý xem ra vẫn còn xa rời các thực tại xã hội, không giúp ngƣời Kitô hữu đối diện và tìm hƣớng giải quyết những vấn nạn của một cuộc sống đang đổi thay. Do đó, việc dạy giáo lý không những phải đổi mới cách trình bày, mà còn phải thoát ra khỏi khuôn khổ của lớp học để vƣơn ra đời sống cộng đoàn cũng nhƣ vƣơn tới các vấn đề xã hội29. 20. Niềm tin vào Ông Trời và việc tôn kính Tổ Tiên là nền tảng cho đời sống đạo đức giúp ngƣời Việt Nam quý trọng sự sống, ăn ngay ở lành và sống hài hòa với mọi ngƣời. Tuy nhiên, tâm thức tôn giáo của họ thƣờng thiên về tình cảm, giới hạn vào một số thực hành nghi lễ và luân lý. Khuynh hƣớng này dễ đƣa đến chủ trƣơng “tƣơng đối hóa tôn giáo”, gây khó khăn cho việc trình bày cũng nhƣ lãnh hội giáo lý mặc khải của Kitô giáo. Hơn thế nữa, một khi không đƣợc đặt nền trên lý trí khao khát chân lý, tâm tình tôn giáo cũng dễ bị lay động trƣớc những trào lƣu duy vật và hƣởng thụ”30. Điều này đòi hỏi việc dạy giáo lý phải giúp các tín hữu đào sâu đức tin, phải có tính cách thƣờng xuyên để có thể giúp họ tăng trƣởng đức tin qua mọi lứa tuổi, hƣớng tới một đức tin trƣởng thành trên bình diện cá nhân cũng nhƣ cộng đoàn. 11
Tại Việt Nam, những ngƣời trẻ chiếm đa số. Họ là những con ngƣời năng động và sáng tạo, đam mê khoa học kỹ thuật qua việc tìm tòi và học hỏi, thế nhƣng nhiều bạn trẻ yêu chuộng công nghệ thông tin đến độ không còn quan tâm nhiều đến các mối quan hệ gia đình và xã hội, say mê cái đẹp qua việc chạy theo các thần tƣợng và bị mê hoặc bởi sự chiếm hữu và hƣởng thụ. Trong khi đó, cách dạy giáo lý của chúng ta vẫn chƣa hấp dẫn đƣợc ngƣời trẻ. Vì thế, cần quan tâm hơn đến giáo lý dành cho ngƣời trẻ, vận dụng các phƣơng tiện truyền thông để trình bày giáo lý cách sinh động và hữu hiệu.
Sống trong một đất nƣớc có nhiều ngƣời nghèo, nhiều dân tộc, nhiều nền văn hóa, nhiều tôn giáo khác nhau và ngƣời vô thần, chúng ta phải đối diện với những khác biệt vừa có khả năng làm cho đời sống nên phong phú, vừa có nguy cơ dẫn đến xung đột. Do đó, việc dạy giáo lý cần chú tâm đến việc đối thoại với ngƣời nghèo, với các nền văn hóa, với các tôn giáo và với ngƣời vô thần31.
Qua những nhận định trên, chúng ta thấy việc huấn giáo cần có một định hƣớng phù hợp với nhu cầu thực tế và thích ứng với các thách đố của thời hiện tại, để giúp các tín hữu không những đào sâu đời sống đức tin mà còn tích cực tham gia vào đời sống xã hội và công cuộc truyền giáo. 12 PHẦN THỨ HAI PHẦN THỨ HAI ĐỊNH HƯỚNG CỦA HỘI THÁNH ĐỊNH HƯỚNG CỦA HỘI THÁNH VỀ VIỆC DẠY GIÁO LÝ VỀ VIỆC DẠY GIÁO LÝ “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28,19-20)
Mệnh lệnh truyền giáo của Chúa Giêsu thúc đẩy các môn đệ của Ngài ra đi rao truyền Tin Mừng cho đến tận cùng thế giới. Vào năm 1533, lần đầu tiên Tin Mừng của Chúa Giêsu đƣợc loan truyền đến Việt Nam do một ngƣời Châu Âu tên là Inêkhê32. Tiếp những năm sau đó, nhiều nhà truyền giáo khác đã đến Việt Nam. Các ngài đã hoạt động nỗ lực để hạt giống Tin Mừng đƣợc gieo xuống, lớn lên và sinh hoa kết quả dồi dào trên đất nƣớc chúng ta33. Kinh nghiệm quý giá của các ngài trong việc LBTM, cách riêng trong việc dạy giáo lý, làm nên truyền thống sống động cho việc LBTM và là nguồn cảm hứng tích cực cho việc dạy giáo lý của chúng ta hôm nay. Vì thế, để định hƣớng cho các hoạt động giáo lý, trƣớc hết chúng ta cần học tập kinh nghiệm của các bậc tiền nhân34, kế đến tham khảo tài liệu Hƣớng Dẫn Tổng Quát Về Việc Dạy Giáo Lý 1997 của Bộ Giáo Sĩ, và Thƣ Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010 của Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi toàn thể cộng đồng dân Chúa Việt Nam. 13 I. TRUYỀN THỐNG DẠY VÀ HỌC GIÁO LÝ TẠI VIỆT NAM
Từ những ngày đầu của công cuộc LBTM tại Việt Nam, các vị thừa sai đã nỗ lực hội nhập niềm tin Kitô giáo vào truyền thống văn hoá địa phƣơng một cách đầy sáng tạo trong việc giảng dạy, biên soạn sách giáo lý35 và đào tạo giáo lý viên36. Nỗ lực hội nhập văn hóa 26. Để trình bày các chân lý đức tin cho ngƣời Việt và khuyến khích họ sống các chân lý ấy, các vị thừa sai đã tôn trọng và vận dụng các giá trị văn hóa Việt Nam, ví dụ nhƣ vận dụng niềm tin sẵn có của ngƣời dân vào một vị thần siêu việt đƣợc gọi là “Ông Trời” để trình bày Thiên Chúa là Đức Chúa Trời; dựa vào lòng hiếu thảo để giúp ngƣời Việt sống mối tƣơng quan với Thiên Chúa là Cha; dựa vào khái niệm trung hiếu của Nho Giáo là Tam Cƣơng (Quân-Sƣ-Phụ) và Tam Phụ (Thiên Chủ = Thƣợng Phụ, Quân Vƣơng = Trung Phụ, Cha Mẹ = Hạ Phụ) để giúp các bậc vua chúa hoặc giới nho sĩ hiểu Thiên Chúa là Thƣợng Phụ mà mọi ngƣời phải hết mực tin kính và tôn thờ37. 27. Các ngài còn nỗ lực hội nhập văn hóa bằng cách trình bày giáo lý bằng tiếng bản xứ, đẩy mạnh việc sáng tạo chữ Quốc ngữ dựa theo mẫu tự La-tinh. Các ngài không những gìn giữ thuần phong mỹ tục, mà còn thích ứng cho phù hợp với niềm tin Kitô giáo, chẳng hạn thờ kính Chúa Ba Ngôi trong ba ngày Tết cổ truyền và sử dụng cây Thánh Giá thay cho cây nêu. Tuy nhiên, các ngài không ngần ngại chỉ trích những tập tục mang mầu sắc dị đoan nhƣ đốt vàng mã, những thói lệ vi phạm quyền bình đẳng của phụ nữ và những tập tục phƣơng hại đến sự hợp nhất gia đình nhƣ tục đa thê38. 14
Các vị thừa sai đã am tƣờng và đáp ứng nhu cầu tâm lý của học viên giáo lý. Biết ngƣời Việt thiên về tình cảm và có óc thực tế, các ngài quan tâm nhiều hơn đến việc khơi dậy lòng đạo bằng cách liên kết việc học hỏi với các lễ nghi nhƣ suy tôn Thánh Giá, rƣớc kiệu, ngắm sự Thƣơng Khó Chúa Giêsu vào mùa Chay... đồng thời sử dụng các hình ảnh cụ thể và những câu chuyện dân gian để giải thích các chân lý đức tin, coi trọng việc hành đạo hơn lý thuyết suông. Thấy ngƣời Việt trọng lễ nhạc và chuộng hội hè, các ngài khuyến khích việc sáng tác văn thơ, ca nhạc để giới thiệu Thiên Chúa cho ngƣời khác... đồng thời cổ võ việc thành lập các hội đoàn, nhờ đó sinh hoạt trong các họ đạo luôn sầm uất và năng động39.
Tinh thần hội nhập văn hóa đƣợc Hội đồng Giám mục Việt Nam tiếp nối qua thỉnh nguyện thƣ gửi Bộ Truyền giảng Phúc Âm cho các dân tộc (Bộ Truyền Giáo)40 về việc tôn kính Tổ Tiên, ngày 20 tháng 10 năm 1964, nhằm giải tỏa thái độ nghi kỵ của ngƣời ngoài, coi đạo Công giáo là đạo bất hiếu. Thỉnh nguyện thƣ đƣợc Bộ Truyền Giáo chấp nhận bằng một văn thƣ với nội dung chính yếu sau: “Những cử chỉ, thái độ và nghi lễ tự nó hoặc do hoàn cảnh, có một ý nghĩa thế tục rõ ràng là để tỏ tinh thần ái quốc, lòng hiếu thảo, tôn kính hoặc tƣởng niệm tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ (nhƣ treo ảnh, hình, dựng tƣợng, nghiêng mình bái kính, chƣng hoa đèn, tổ chức ngày kỵ, giỗ...) thì đƣợc thi hành và tham dự cách chủ động”41. Nỗ lực biên soạn
Để phục vụ cho việc dạy giáo lý, các vị thừa sai còn biên soạn sách giáo lý bằng tiếng Việt. Cha Girolamo Maiorica (Gi-rô-la-mô Ma-i-ô-ri-ca) soạn Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông, bản chữ Nôm vào tiền bán thế kỷ XVII, giúp cho ngƣời dự tòng học thuộc giáo lý căn bản42. Cha Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) 15 soạn Phép Giảng Tám Ngày bằng chữ quốc ngữ vào năm 1651, để giúp giáo lý viên đồng hành với ngƣời dự tòng trong tiến trình hoán cải và lãnh nhận Bí tích Rửa Tội43. Đức Cha Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) biên soạn và ấn hành Thánh Giáo Yếu Lý vào năm 1774, còn gọi là sách “Bổn Dạy Đạo Thánh” bằng chữ Nôm dành cho giáo dân học biết những điều căn bản về đạo lý. Có thể nói đây là lần đầu tiên ngƣời Việt đƣợc học các lẽ đạo một cách có hệ thống, có phần-đoạn và đi từ những chân lý nền tảng cần phải biết, cần phải tin, cho đến những điều thực hành nhƣ luân lý phải giữ và lễ nghi cầu kinh trong việc thờ phƣợng44.
Từ năm 1651 đến năm 1967 đã có hơn 80 đầu Sách Giáo Lý dành cho các đối tƣợng khác nhau nhƣ ấu nhi, thanh thiếu niên, ngƣời lớn và dự tòng, thuộc các lãnh vực khác nhau nhƣ lịch sử Hội Thánh Công giáo, Thánh Kinh, sƣ phạm, giải thích Kinh Thánh bằng vè, thơ ca...45 Sang thập niên 70 của thế kỷ XX, nhiều bộ sách giáo lý đƣợc biên soạn dƣới nhiều hình thức, dành cho các lứa tuổi khác nhau hoặc các cấp lớp tiểu học và trung học, ví dụ nhƣ bộ giáo lý của các trung tâm huấn giáo Phanxicô, Sài gòn, Đà Nẵng, Xuân Lộc, Nha Trang, Đà Lạt. Hiện nay một số giáo phận cũng biên soạn bộ giáo lý riêng cho từng đối tƣợng hoặc cho chung cộng đoàn.46 Nỗ lực đào tạo giáo lý viên
Bên cạnh việc biên soạn sách giáo lý, các vị thừa sai còn nỗ lực đào tạo giáo lý viên bản xứ để họ giảng dạy giáo lý bằng tiếng mẹ đẻ của mình và có thể thay thế các ngài trong các hoạt động mục vụ khác nhau47. Cha Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) đã thiết lập Hội Thầy Giảng để trợ giúp các giáo sĩ trong vấn đề dịch thuật và tổ chức các sinh hoạt cộng đoàn, hoặc lãnh đạo cộng đoàn khi các ngài vắng mặt bằng cách quy tụ, dạy giáo lý, 16 hƣớng dẫn đọc kinh và làm các việc đạo đức. Đức cha Lambert de la Motte (Lâm Bích) thiết lập dòng Mến Thánh Giá vào năm 1670, quy tụ các nữ tu chăm lo việc dạy giáo lý cho ngƣời nghèo, viếng thăm ngƣời già yếu, bán thuốc, chữa bệnh và nhất là rửa tội cho các em nhỏ hấp hối, hoặc con cái của các gia đình nghèo túng trong mọi hang cùng ngõ hẻm của thôn làng48. Một trong những hoa trái của việc đào tạo này là Thầy Giảng Anrê Phú Yên, ngƣời đƣợc thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị nâng lên hàng Chân Phƣớc vào năm 2000. Thầy là mẫu gƣơng của giáo lý viên trong việc dấn thân rao giảng Tin Mừng49.
Công cuộc đào tạo giáo lý viên bản địa luôn đƣợc các giáo phận quan tâm, nổi bật là chƣơng trình đào tạo “Yao Phu“ của Giáo phận Kontum. Đây là chƣơng trình đào tạo thanh niên dân tộc trở thành các giáo lý viên phục vụ cho các họ đạo ngƣời dân tộc vùng sâu, vùng xa. Các giáo lý viên đƣợc đào tạo tại trƣờng Yao Phu do Cha Martial Jannin (Phƣớc)50 xây dựng và lên chƣơng trình đào tạo, hoặc họ có thể đƣợc các linh mục địa sở tuyển chọn và huấn luyện qua những khóa ngắn hạn. Qua những thăng trầm của lịch sử, đến nay đã hơn 100 năm, chƣơng trình vẫn tiếp tục hoạt động51. Ở các giáo phận khác, đông đảo giáo lý viên đƣợc đào tạo dƣới nhiều hình thức khác nhau và tích cực tham gia việc dạy giáo lý tại các giáo xứ.
Từ kinh nghiệm của các bậc tiền nhân, chúng ta thấy việc dạy giáo lý không những phải hội nhập niềm tin Kitô giáo vào truyền thống văn hóa Việt Nam mà còn phải đồng nhịp với xu hƣớng chung của Hội Thánh hoàn vũ, bằng cách cập nhật cho các tín hữu đạo lý truyền thống, căn bản và đƣơng thời nhất của Hội Thánh52. Trong chiều hƣớng này, chúng ta cần hiểu biết quan điểm của Hội Thánh về việc dạy giáo lý, đƣợc trình bày trong tài liệu Hƣớng Dẫn Tổng Quát Việc Dạy Giáo Lý của Bộ Giáo Sĩ năm 1997. 17 II. HƢỚNG DẪN TỔNG QUÁT VIỆC DẠY GIÁO LÝ 1997
Theo Hƣớng Dẫn Tổng Quát 1997, việc dạy giáo lý đƣợc đặt trong viễn tƣợng loan báo Tin Mừng53 và đƣợc liên kết với các hình thức khác của tác vụ Lời Chúa. Trong viễn tƣợng này, việc dạy giáo lý trƣớc hết là hoạt động của Hội Thánh nhằm loan báo Tin Mừng cứu độ của Thiên Chúa; tiếp đến là tác vụ Lời Chúa nhằm loan báo và dẫn ngƣời ta đến với Chúa Giêsu; và cuối cùng là giáo dục đức tin nhằm giúp ngƣời ta lớn lên trong Đức Kitô nhờ mở lòng đón nhận sự dạy dỗ của Chúa Thánh Thần. Trong chiều hƣớng này, việc dạy giáo lý tập trung vào Chúa Giêsu, nhờ Ngài mở ra các mối tƣơng quan với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, với Hội Thánh, với nhân loại (con ngƣời) và với thế giới (môi trƣờng)54. Dạy giáo lý là hoạt động của Hội Thánh
Việc dạy giáo lý là một trong những hoạt động của Hội Thánh nhằm loan báo Tin Mừng55. Hội Thánh loan báo Tin Mừng dƣới nhiều hình thức khác nhau và hoạt động theo một tiến trình đƣợc tổ chức thành những giai đoạn hay thời điểm khác nhau: hoạt động truyền giáo cho những ngƣời không tin và những ngƣời sống lãnh đạm với tôn giáo; hoạt động giáo lý khai tâm cho những ngƣời đã chọn lựa sống theo Tin Mừng và những ngƣời cần bổ sung đời sống khai tâm; hoạt động mục vụ cho các tín hữu trong cộng đoàn56. Nhƣ thế, việc dạy giáo lý đƣợc hiểu là thời điểm chính yếu của tiến trình loan báo Tin Mừng57, vì nó đặt nền móng cho tòa nhà đức tin58 và là mắt xích nối kết sinh hoạt truyền giáo với sinh hoạt mục vụ59. 18 Dạy giáo lý là tác vụ Lời Chúa
Hội Thánh có sứ mệnh loan báo Tin Mừng nghĩa là loan báo Chúa Giêsu; chính Ngài là mạc khải trọn vẹn của Thiên Chúa và là con đƣờng dẫn chúng ta đi vào sự hiệp thông với Thiên Chúa60. Hội Thánh loan báo Chúa Giêsu bằng cách làm cho Lời Chúa âm vang trong lòng con ngƣời, để mọi ngƣời lắng nghe và đáp lại, nhờ đó đƣợc hiệp thông với Chúa Giêsu trong đời sống cũng nhƣ trong sứ vụ của Ngài. Nguồn mạch của giáo lý
Chúa Giêsu chính là Lời Thiên Chúa ngỏ với con ngƣời. Lời này đƣợc truyền đạt trong Thánh Kinh và Thánh Truyền, cả hai hợp thành một kho tàng duy nhất thánh thiêng chứa đựng Lời Chúa, đƣợc trao phó cho Hội Thánh để gìn giữ và thông truyền cho mọi ngƣời61. Thánh Kinh là Lời Chúa, dƣới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần, đã đƣợc ghi lại bằng chữ viết62; còn Thánh Truyền thì chuyển giao toàn bộ Lời Chúa cho những đấng kế vị các Tông Đồ63. Huấn Quyền có nhiệm vụ giải thích Lời Chúa một cách chính thức64, nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Thánh Kinh, Thánh Truyền và Huấn Quyền, gắn bó mật thiết và liên kết với nhau, mỗi bên theo cách thế của mình65, đều là “những nguồn mạch” chính yếu của việc dạy giáo lý66. Mục đích của việc dạy giáo lý
Mục đích tối hậu của việc dạy giáo lý là làm cho con ngƣời không những tiếp xúc, mà còn đƣợc hiệp thông mật thiết với Chúa Giêsu Kitô67; nhờ đó, con ngƣời đƣợc kết hợp với Chúa Cha, với Chúa Thánh Thần, với Hội Thánh, và với nhân loại68. Nhiệm vụ của việc dạy giáo lý
Việc dạy giáo lý có nhiệm vụ làm cho sự hoán cải ban đầu đƣợc hoàn hảo, việc tuyên xƣng đức tin trở nên sống động, 19 minh nhiên và hữu hiệu69: sống động nhờ luôn biết học hỏi, khám phá, tìm kiếm; minh nhiên bởi đức tin đƣợc biểu lộ một cách rõ ràng qua việc tham gia các hoạt động mục vụ; hữu hiệu nghĩa là đức tin đƣợc sống, đƣợc chuyển thành kinh nguyện, đƣợc chia sẻ và đƣợc rao giảng70. Tóm lại, việc dạy giáo lý phải chu toàn các nhiệm vụ khác nhau nhƣng bao hàm lẫn nhau, đó là giúp hiểu biết đức tin, giáo dục phụng vụ, huấn luyện luân lý, dạy cầu nguyện, giáo dục đời sống cộng đoàn và khai tâm cho việc truyền giáo71. Dạy giáo lý là giáo dục đức tin
Khi dạy giáo lý, Hội Thánh thể hiện vai trò của nhà giáo dục đức tin bằng cách giúp ngƣời ta lớn lên trong Đức Kitô, nhờ mở lòng đón nhận sự dạy dỗ và uốn nắn của Chúa Thánh Thần72. Vì thế, việc dạy giáo lý là hành động của Thiên Chúa nhờ Thánh Thần của Ngài, trƣớc khi là hành động của con ngƣời: “Trong việc thực hành huấn giáo, không phải các kỹ năng sƣ phạm tân tiến nhất, cũng chẳng phải những giáo lý viên có nhân cách lôi cuốn nhất có thể thay thế cho hành động thầm lặng và kín đáo của Chúa Thánh Thần”73, vì chính Ngài là giáo lý viên đầu tiên, là vị Thầy nội tâm của những ai lớn lên trong Đức Kitô74. Sư phạm đức tin 42. Hội Thánh giáo dục đức tin theo khoa sƣ phạm của Thiên Chúa. Thiên Chúa giáo dục dân Ngài trong thời gian và tiệm tiến theo thời gian, qua các biến cố và các giáo huấn trong lịch sử cứu độ. Sự tín trung và nhẫn nại của Thiên Chúa là trƣờng dạy con ngƣời mở ra cho cuộc đối thoại với Ngài trong tình yêu. Khoa sƣ phạm của Thiên Chúa đƣợc tiếp nối bởi Chúa Giêsu75. Qua lời nói và việc làm, cách riêng qua mẫu gƣơng sống động về tình yêu đối với Thiên Chúa Cha cũng nhƣ đối với mọi ngƣời, Chúa Giêsu tỏ cho biết Thiên Chúa là Cha yêu thƣơng mọi ngƣời 20 và mời gọi mọi ngƣời cùng Ngài bƣớc vào hành trình yêu thƣơng. Chúa Giêsu còn là mẫu gƣơng của sự vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, để chu toàn thánh ý Chúa Cha và đem lại cho mọi ngƣời ơn tha thứ. Qua đó, Ngài dạy con ngƣời bài học vâng phục trong đức tin76. Chúa Giêsu trao lại cho Hội Thánh khoa sƣ phạm đức tin của Ngài. Nhờ ân sủng và tình thƣơng của Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Hội Thánh thông truyền đức tin cho con cái mình bằng gƣơng mẫu đời sống, lời giảng dạy, cử hành các Bí tích, và những phƣơng thế ban ân sủng khác77. Phương pháp của giáo lý
Sự thông truyền đức tin của Hội Thánh là kết quả của sự gặp gỡ giữa Lời Chúa và kinh nghiệm của con ngƣời. Sự gặp gỡ này có thể xảy ra qua nhiều con đƣờng khác nhau, nhƣng tựu trung có hai con đƣờng chính yếu: một là khởi đi từ Lời Chúa đến kinh nghiệm, nghĩa là bắt đầu từ việc loan báo sứ điệp, đƣợc diễn tả trong Thánh Kinh, phụng vụ, giáo lý... và đem ra thực hành trong cuộc sống; hai là khởi đi từ kinh nghiệm con ngƣời đến Lời Chúa, nghĩa là bắt đầu từ những vấn đề và những hoàn cảnh của con ngƣời, đƣợc soi dẫn bằng ánh sáng Lời Chúa. Cả hai con đƣờng đều chính đáng, với điều kiện tôn trọng nguyên tắc “trung thành với Thiên Chúa và trung thành với con ngƣời“78, nghĩa là phải truyền đạt Tin Mừng trong sự toàn vẹn của nó79 đang khi tôn trọng những điều kiện và hoàn cảnh của con ngƣời80.
Tóm lại, theo HDTQ 1997, Hội Thánh xác định việc dạy giáo lý trong viễn tƣợng loan báo Tin Mừng, với ba yếu tố chính là hoạt động của Hội Thánh, tác vụ Lời Chúa và giáo dục đức tin; xác định khuôn mẫu sƣ phạm phải theo là khoa sƣ phạm của Thiên Chúa đƣợc thể hiện qua giáo huấn và hành động của Đức 21 Giêsu; và nguyên tắc phải giữ đó là “trung thành với Thiên Chúa và trung thành với con ngƣời“81. III. ĐỊNH HƢỚNG CỦA HỘI THÁNH TẠI VIỆT NAM
Chúng tôi tin rằng dựa vào những hƣớng dẫn của Bộ Giáo sĩ về việc dạy giáo lý 1997, và tinh thần của Đại Hội Dân Chúa năm 2010, việc dạy giáo lý sẽ trổ sinh hoa trái tốt đẹp hơn trên mảnh đất quê hƣơng chúng ta. Với những chỉ dẫn của Thƣ Chung hậu Đại hội Dân Chúa 2010, khi nhìn vào hiện trạng đất nƣớc, nơi ngƣời Công giáo Việt Nam đang sống và thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng, chúng tôi nhận ra rằng Hội Thánh tại Việt Nam cần phải sống và thể hiện mầu nhiệm Hội Thánh nhƣ “dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và hiệp nhất toàn thể nhân loại”82.
Theo định hƣớng này, việc dạy giáo lý, xét nhƣ là công cuộc giáo dục đức tin, phải góp phần vào việc đào tạo những Kitô hữu sống trọn vẹn mầu nhiệm hiệp thông với ba chiều kích: với Thiên Chúa, với Hội Thánh và với mọi ngƣời. Về sự hiệp thông với Thiên Chúa
Thƣ Chung đề nghị: “Cộng đoàn tín hữu Việt Nam cần phải chú ý nhiều hơn nữa đến việc vun trồng đời sống nội tâm, nhấn mạnh chiều kích thiêng liêng trong mọi chƣơng trình huấn luyện cũng nhƣ mục vụ. Nhƣ vậy, mọi thành phần trong Hội Thánh đƣợc kêu gọi nên thánh, vƣơn đến đức ái trọn hảo, theo gƣơng khiêm nhƣờng và phục vụ của Đức Kitô”83. 22 Về sự hiệp thông với Hội Thánh
Thƣ Chung nhấn mạnh: “Hội Thánh thực sự là gia đình của Thiên Chúa, có Thiên Chúa là Cha, có Đức Kitô là Trƣởng Tử giữa đàn em đông đúc, và có Chúa Thánh Thần là tình yêu hiệp thông... Hình ảnh Hội Thánh-Gia Đình gần gũi với tâm thức, kinh nghiệm và suy nghĩ của tín hữu Việt Nam nói riêng và của ngƣời dân Việt nói chung... Do đó, cần nghiên cứu, suy tƣ và trình bày Hội Thánh nhƣ gia đình của Thiên Chúa, để hội nhập thần học Kitô giáo vào xã hội Việt Nam. Trên nền tảng thần học đó, các mục tử xây dựng những kế hoạch mục vụ giáo xứ là gia đình của các gia đình, canh tân cử hành phụng vụ và cầu nguyện trong bầu khí hiệp thông gia đình, cũng nhƣ phát triển những hoạt động mục vụ gia đình”84. Về sự hiệp thông với mọi người trong xã hội
Thƣ Chung khẳng định: “Hội Thánh là Bí tích của Nƣớc Thiên Chúa, nơi đó Thiên Chúa là tất cả cho mọi ngƣời. Vì thế, Hội Thánh có sứ mệnh yêu thƣơng và phục vụ, hƣớng dẫn nhân loại đạt tới hạnh phúc chân thật. Các môn đệ Đức Kitô không hề coi thƣờng các thực tại nhân sinh, nhƣng sẵn sàng cộng tác tích cực với mọi ngƣời xây dựng trần thế, vì tất cả những gì tốt lành và thiện hảo sẽ không bị phá hủy mà đƣợc nên hoàn hảo trong Nƣớc Chúa vĩnh cửu và phổ quát. Không có sự đối kháng giữa niềm chờ mong Nƣớc Chúa và nỗ lực xây dựng trần thế, do đó phải tránh xa quan niệm và lối sống phân cách giữa đức tin và đời sống hàng ngày. Cũng vì thế, cần phải cảnh giác trƣớc mọi hình thức tội lỗi và can đảm vƣợt thắng chủ nghĩa tục hóa, óc cục bộ và vô tín, bởi vì những điều ấy hạ thấp phẩm giá con ngƣời. Nhƣ vậy, Hội Thánh đồng hành với thế giới nhƣ một ngôn sứ, chia sẻ những khổ đau và vui buồn của kiếp nhân sinh, can đảm chống lại sự ác dƣới mọi hình thức, vì hạnh phúc toàn 23 diện của con cái Thiên Chúa, và kiên trì khơi lên nơi lòng ngƣời niềm hy vọng vào Thiên Chúa tín trung”85. Đối thoại 50. Để phục vụ cho công cuộc truyền giáo tại Việt Nam, việc dạy giáo lý còn phải góp phần vào việc đào tạo những Kitô hữu có khả năng đối thoại với sự chân thành cũng nhƣ với cả tấm lòng: “Trong bối cảnh của xã hội Việt Nam, khi thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng, Hội Thánh cần đối thoại với các tôn giáo, với ngƣời nghèo, và với những anh chị em không tôn giáo. Đây là cuộc đối thoại từ trái tim đến trái tim nhằm xây dựng sự hiểu biết lẫn nhau và phục vụ hạnh phúc đích thực của con ngƣời. Đó cũng là cuộc đối thoại phục vụ ơn cứu độ”86. Hội nhập
Hội đồng Giám mục Việt Nam coi việc dạy và học giáo lý là việc quan trọng, đòi hỏi một nỗ lực chung theo hƣớng hội nhập văn hóa: “Việc dạy và học giáo lý là đòi hỏi tối cần thiết trong đời sống Hội Thánh, nhất là trong thời đại ngày nay đầy rẫy những luồng tƣ tƣởng nghịch với Tin Mừng. Đại hội Dân Chúa mong mỏi sớm có đƣợc những nguyên tắc, đƣờng hƣớng và chƣơng trình chung, cũng nhƣ một thủ bản chung về giáo lý, vừa trung thành với Tin Mừng vừa gần gũi với văn hóa Việt Nam. Đồng thời, Lời Chúa phải là nền tảng cho mọi chƣơng trình thƣờng huấn cũng nhƣ đào tạo chủng sinh, tu sĩ, giáo lý viên”87. 24 PHẦN THỨ BA PHẦN THỨ BA NHỮNG NHỮNG HƯỚNG DẪN THỰC HÀNHHƯỚNG DẪN THỰC HÀNH "Vàng bạc thì tôi không có; nhƣng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giê-su Ki-tô ngƣời Na-da-rét, anh đứng dậy mà đi!" (Cv 3,6)
Sau khi thánh Phêrô nói lời này, ngƣời ăn xin tàn tật đứng phắt dậy, đi lại đƣợc, rồi cùng với Thánh nhân vào Đền thờ, vừa đi vừa nhảy nhót và ca tụng Thiên Chúa. Những ngƣời chứng kiến phép lạ kinh ngạc về quyền năng Chúa ban cho Thánh Phêrô, còn Thánh nhân thì ý thức rằng mình chỉ là khí cụ để Chúa Giêsu gặp gỡ, ngỏ lời và chữa lành cho ngƣời ấy, đồng thời dẫn họ vào sự hiệp thông với Thiên Chúa trong niềm vui. Theo ý hƣớng này, chúng tôi đề nghị một số hƣớng dẫn thực hành, để việc dạy giáo lý, đào tạo giáo lý viên, soạn sách giáo lý và tổ chức các hoạt động giáo lý thực sự trở thành việc phục vụ cho sự hiệp thông với Chúa Giêsu và thúc đẩy sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. I. VỀ VIỆC DẠY GIÁO LÝ
Việc dạy giáo lý tại Việt Nam phải củng cố sự hiệp thông với Chúa Giêsu Kitô, nhờ đó hiệp thông với Chúa Cha, với Chúa Thánh Thần, với Hội Thánh và với nhân loại88. Khi giúp học viên giáo lý hiểu và đi vào những mối hiệp thông này, giáo lý viên nên vận dụng hình ảnh gia đình và những nét đẹp văn hóa 25 trong truyền thống gia đình nhƣ lòng hiếu thảo với ông bà, cha mẹ để diễn tả sự hiệp thông hiếu thảo với Thiên Chúa; tình nghĩa anh em để trình bày sự hiệp thông huynh đệ trong Hội Thánh, và tình đồng bào để mô tả mối hiệp thông chan hòa với mọi ngƣời. Hiệp thông với Thiên Chúa 54. Trong việc dạy giáo lý, cần nhấn mạnh đến mục đích tối hậu là gặp gỡ và kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu Kitô. Muốn thế, việc dạy giáo lý phải: - Đặt nền tảng trên Lời Chúa và Lời Chúa phải là linh hồn của việc dạy giáo lý89. Việc dạy giáo lý phải giúp cho học viên tiếp cận với bản văn Thánh Kinh, hiểu và đón nhận sứ điệp Lời Chúa, biết diễn tả niềm xác tín của mình và dấn thân thực hiện theo Lời Chúa. - Hƣớng dẫn học viên giáo lý cầu nguyện bằng cách thƣa chuyện với Chúa nhờ lắng nghe và đón nhận Lời Chúa90. - Tập cho học viên giáo lý có đƣợc cảm thức thánh thiêng khi tham dự phụng vụ và lãnh nhận các Bí tích, đặc biệt Bí tích Thống Hối và Thánh Thể91. - Giúp học viên có đƣợc những thói quen đạo đức trong đời sống hằng ngày92. Hiệp thông với Hội Thánh 55. Việc dạy giáo lý phải là hoạt động của toàn thể cộng đoàn, đƣợc diễn ra trong cộng đoàn và dẫn vào cộng đoàn, giúp học viên yêu mến, gắn bó và tích cực tham gia vào sinh hoạt của cộng đoàn, nhờ đó, cả cộng đoàn đƣợc lớn lên trong đức tin93: - Cả cộng đoàn phải tham gia vào việc học giáo lý, vì giáo lý không chỉ dành riêng cho một giai đoạn nhƣng cho cả hành trình cuộc sống, từ thiếu nhi, giới trẻ đến ngƣời lớn, ngƣời già và cần phải quan tâm đến ngƣời có hoàn cảnh đặc biệt. 26
Cả cộng đoàn phải tham gia và cộng tác vào việc dạy giáo lý bằng tiếp đón, cầu nguyện, gặp gỡ, nêu gƣơng, đồng hành, tham gia các khóa đào tạo... vì huấn giáo không chỉ là dạy và học mà còn giúp học viên giáo lý sống và lớn lên trong đức tin. Hiệp thông với mọi người
Việc dạy giáo lý phải vƣợt ra khỏi khuôn khổ của một “lớp học”, vƣơn ra các vấn đề xã hội nhằm xây dựng thiện ích chung theo Tin Mừng94. Để thực hiện điều đó, giáo lý viên giúp học viên giáo lý:
Quan tâm nhiều hơn đến những chuyển biến của xã hội, biết đọc các dấu chỉ của thời đại để khám phá ra sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa, lắng nghe lời mời gọi của Ngài trong các hoàn cảnh khác nhau;
Có khả năng diễn tả niềm xác tín của mình khi học giáo lý, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng chứng tá về một cuộc sống tốt đẹp, cả về thể lý lẫn tinh thần, nhờ sống theo các giá trị Tin Mừng;
Có khả năng đáp lại Lời mời gọi của Chúa ngay trong cuộc sống, bằng cách dấn thân xây dựng và bảo vệ môi trƣờng, quan tâm đến ngƣời nghèo, đối thoại với các nền văn hóa, với các tôn giáo và với ngƣời vô thần, đồng thời hợp tác với mọi thành phần trong xã hội phục vụ cho công ích và cho sự sống của con ngƣời. Sự hiệp thông truyền giáo
Nếu việc dạy giáo lý dẫn đến hiệp thông với Thiên Chúa, với Hội Thánh và với mọi ngƣời, thì hoa trái của nó là truyền giáo, vì “hiệp thông và truyền giáo liên kết mật thiết với nhau, cả hai thâm nhập và bao hàm nhau, đến độ sự hiệp thông vừa là nguồn mạch vừa là kết quả của việc truyền giáo. Có thể nói, 27 tự bản chất, hiệp thông mang tính truyền giáo và truyền giáo nhằm mục đích hiệp thông”95. II. VỀ VIỆC ĐÀO TẠO GIÁO LÝ VIÊN Sự cần thiết và tầm quan trọng
Việc đào tạo giáo lý viên hết sức cần thiết và quan trọng, vì phẩm chất của ngƣời dạy quan trọng hơn thủ bản và những công cụ làm việc khác. Mục vụ giáo phận phải chú trọng đến việc đào tạo huấn giáo cho các linh mục ngay trong chƣơng trình học tại chủng viện cũng nhƣ trong các khóa thƣờng huấn96, dành ƣu tiên cho việc đào tạo giáo lý viên giáo dân, đặc biệt các giáo lý viên để phục vụ ngƣời trƣởng thành97, vì giáo lý cho ngƣời lớn là hình thức giáo lý ƣu việt nhất98. Việc đào tạo này phải đƣợc thực hiện một cách kỹ lƣỡng, toàn diện và chuyên biệt để họ có thể bảo đảm chất lƣợng và hiệu quả cho việc dạy giáo lý99, đồng thời phải đào tạo thế nào để mỗi nơi, mỗi cấp bậc có một số giáo lý viên chuyên nghiệp dƣới sự hƣớng dẫn của các mục tử và các tổ chức huấn giáo100. Mục đích và bản chất
Việc đào tạo có mục đích giúp giáo lý viên ý thức về ơn gọi cao quý và chuyên biệt của mình trong Hội Thánh101; giúp họ hiểu biết các mầu nhiệm Kitô giáo, trở nên ngƣời môn đệ chân chính của Chúa Giêsu và tham dự vào sứ mạng cứu rỗi của Ngài102; giúp họ có khả năng thông truyền sứ điệp Kitô giáo nhân danh Hội Thánh103, tức khả năng loan báo Chúa Giêsu và ý nghĩa quyết định của Ngài trong lịch sử cứu độ, từ đó họ có thể giúp học viên giáo lý trở nên đồng hình đồng dạng và nên một với Đức Kitô. 28 Tiêu chuẩn và chiều kích
Các ứng viên đƣợc tuyển chọn vào trách nhiệm giảng dạy giáo lý theo các tiêu chuẩn “đầy đủ, chính xác, thực tế và có thể kiểm chứng đƣợc“104 do các giám mục thẩm định và đề ra, theo nhu cầu và hoàn cảnh của từng địa phƣơng. Các ứng viên này phải đƣợc đào tạo để có một sự thống nhất và hài hòa trong nhân cách, nghĩa là đạt đến sự thống nhất đời sống trên các bình diện thiêng liêng, thế tục và tông đồ105; có một đức tin sâu sắc, gắn bó với Chúa Kitô và Hội Thánh, thấm nhuần văn hóa Việt Nam và nhạy cảm với các vấn đề của xã hội đƣơng thời106.
Các giáo lý viên cần đƣợc đào tạo để trở nên khí cụ của sự hiệp thông qua việc đối thoại và hòa giải nhằm xây dựng Vƣơng Quốc của Thiên Chúa, trở nên thầy dạy, nhà giáo dục và chứng nhân107 trên ba bình diện “con ngƣời, sự hiểu biết và sự thành thạo”108, nghĩa là trƣớc hết phải giáo lý viên phải là một ngƣời trƣởng thành nhân bản, một tín hữu sốt sắng và một tông đồ nhiệt thành; kế đến phải hiểu biết rõ sứ điệp mình truyền đạt và con ngƣời đón nhận sứ điệp đó cũng nhƣ bối cảnh xã hội mà họ đang sống; cuối cùng giáo lý viên phải thành thạo trong lãnh vực giáo dục con ngƣời109. Điều này đòi hỏi chú trọng đến việc đào tạo về Nhân bản, Đời sống thiêng liêng, Thánh Kinh và Thần học, các khoa tâm lý, xã hội, giáo dục và truyền thông cũng nhƣ về sƣ phạm. Giáo lý viên cần đƣợc đào tạo giữa lòng các cộng đoàn Kitô hữu110, trong các trƣờng dành riêng cho giáo lý viên thông thƣờng và các trƣờng chuyên môn dành cho những ngƣời có trách nhiệm cũng nhƣ các chuyên viên về huấn giáo111. 29 III. VỀ VIỆC SOẠN THẢO SÁCH GIÁO LÝ Sự cần thiết và các đặc tính
Soạn thảo sách giáo lý là một việc cần thiết để Tin Mừng có thể đƣợc loan báo cho những học viên giáo lý khác biệt nhau về trình độ văn hóa, tuổi tác, mức trƣởng thành thiêng liêng, hoàn cảnh xã hội... Sách giáo lý là công cụ cần thiết cho việc dạy giáo lý, phải bảo vệ tính thống nhất của đức tin và sự trung thành với Giáo lý Công giáo, đồng thời phải quan tâm đến những hoàn cảnh và các nền văn hóa khác nhau112. Sách giáo lý đƣợc giám mục giáo phận phê chuẩn là bản văn chính thức của Hội Thánh, là tổng hợp căn bản trình bày các chân lý nền tảng của đức tin một cách có hệ thống trong sự tôn trọng bậc thang các chân lý, và là điểm quy chiếu truyền cảm hứng cho việc dạy giáo lý113. Sự thích nghi và sáng tạo
Khi trình bày tổng hợp đức tin trong một hoàn cảnh cụ thể hoặc theo một môi trƣờng văn hóa, sách giáo lý có nhiệm vụ thích nghi để có thể truyền đạt đức tin với những điểm nhấn đặc biệt và rõ rệt hơn, hoặc diễn tả các mầu nhiệm đức tin cách độc đáo và gần gũi hơn với tâm thức của ngƣời Việt. Tuy nhiên khi thi hành nhiệm vụ này, các sách giáo lý địa phƣơng phải đƣợc sáng tạo một cách đúng đắn nhờ quy chiếu vào Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo. Công đồng Vaticanô II đã chỉ ra nguyên tắc phải theo khi thích nghi sứ điệp Kitô giáo cho các lứa tuổi, hoàn cảnh và văn hóa khác nhau: “Hãy luôn tìm kiếm một phƣơng thức thích ứng hơn để truyền thông giáo lý cho ngƣời đƣơng thời: vì một đàng là kho tàng đức tin của các chân lý, một đàng là phƣơng thức diễn đạt kho tàng đó, miễn sao giữ vững đúng ý nghĩa và nội dung”114. 30 Sự hài hòa và thống nhất
Sách giáo lý của Giáo Hội địa phƣơng phải hài hòa và thống nhất với Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, nhằm biểu lộ tính công giáo và sự hiệp nhất trong đức tin của Hội Thánh. Sự hài hòa và thống nhất này còn diễn tả một cách hiển nhiên tính hiệp đoàn của Hàng Giám mục và sự hiệp thông của các giám mục với đấng kế vị thánh Phêrô trong trách nhiệm đối với việc dạy giáo lý. Nhờ sự thống nhất sâu xa và sự đa dạng phong phú, Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo và sách giáo lý của mỗi Giáo Hội địa phƣơng trở thành nắm men cho sự canh tân việc dạy giáo lý trong Hội Thánh115. IV. VỀ VIỆC TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁO LÝ
Dạy giáo lý là một hoạt động thiết yếu trong đời sống của Hội Thánh và đƣợc thực hiện từ cấp giáo xứ, giáo hạt, giáo phận, đến cấp giáo tỉnh, quốc gia và toàn cầu. Vì thế, các hoạt động này phải đƣợc tổ chức có hệ thống và thứ bậc, nhằm phục vụ cho sự hiệp thông trong Hội Thánh. Cấp giáo xứ
Giáo xứ là cộng đoàn căn bản và có vai trò chính yếu trong việc giáo dục đức tin cho các tín hữu, vì thế, trách nhiệm đầu tiên thuộc về linh mục chánh xứ, ngài có nhiệm vụ chăm lo đời sống đức tin cho mọi thành phần trong giáo xứ, từ trẻ em đến giới trẻ, từ ngƣời lớn đến ngƣời già và ngƣời tàn tật116. Để có thể thi hành tốt đẹp sứ vụ và trách nhiệm của mình, linh mục chánh xứ cần “mời gọi sự cộng tác của các giáo sĩ, các phần tử của các hội dòng tận hiến cũng nhƣ các tu đoàn tông đồ, các 31 giáo dân, nhất là các giáo lý viên”117 cùng chia sẻ trách nhiệm giảng dạy giáo lý. Ngoài ra, nhiệm vụ này cũng đòi buộc ngài “phải cổ võ và thúc đẩy các bậc cha mẹ chu toàn bổn phận dạy giáo lý trong gia đình”118. Cấp giáo hạt
Ban Giáo lý cấp giáo hạt gồm một linh mục trƣởng ban do các linh mục trong giáo hạt đề cử. Các thành viên khác do linh mục trƣởng ban chọn lựa và đƣợc linh mục quản hạt phê duyệt. Ban Giáo lý cấp giáo hạt có nhiệm vụ nối kết với Ban giáo lý cấp giáo phận; hỗ trợ và cổ võ các hoạt động giáo lý tại các giáo xứ. Ban này lên kế hoạch hoạt động theo kế hoạch mục vụ do Ban giáo lý cấp giáo phận đề ra, tham gia, đôn đốc và hỗ trợ tích cực các sinh hoạt thƣờng kỳ của giáo lý viên giáo phận, các hội nghị hoặc đại hội giáo lý hàng năm do Ban Giáo lý cấp giáo phận tổ chức. Cấp giáo phận
Ban Giáo lý cấp giáo phận là thành phần không thể thiếu trong hệ thống tổ chức mục vụ của giáo phận119, trong đó, Giám mục với tƣ cách là thầy dạy đức tin, chịu trách nhiệm điều hành và hƣớng dẫn tất cả các hoạt động giáo lý của giáo phận120. Khi chăm lo hoạt động giáo lý trong giáo phận, Giám mục cần theo sự chỉ dẫn của Toà Thánh, cụ thể, thiết đặt những “quy định về huấn giáo trong giáo phận, soạn thảo sách giáo lý, cổ võ và phối hợp các chƣơng trình giáo lý, dự liệu những phƣơng tiện thích hợp cho việc huấn giáo”121, quan tâm đến việc đào tạo các giáo lý viên nhằm giúp họ có thể thi hành trọn vẹn nhiệm vụ của mình122.
Ban Giáo lý cấp giáo phận gồm có một linh mục trƣởng ban do Giám mục bổ nhiệm và các thành viên với những vai trò khác nhau do linh mục trƣởng ban đề cử và đƣợc Giám mục phê 32 duyệt. Ban này có nhiệm vụ phân tích tình hình giáo dục đức tin để xác định nhu cầu liên quan đến huấn giáo; soạn thảo một chƣơng trình hành động, ấn định rõ tầm nhìn, mục tiêu, phƣơng hƣớng và hành động cụ thể; khuyến khích và hỗ trợ công cuộc đào tạo giáo lý viên; soạn thảo sách giáo lý và cung cấp cho giáo lý viên những phƣơng tiện hỗ trợ cho việc dạy giáo lý; cung cấp và cải thiện nguồn nhân lực và vật lực ở cấp giáo phận, giáo hạt và giáo xứ; cộng tác với các ban mục vụ khác, cách riêng với Ban Phụng tự và Truyền giáo. Để hoàn tất những công việc trên, cần có một văn phòng giáo lý do một nhóm linh mục, tu sĩ và giáo dân có khả năng chuyên môn đảm nhận123. Ban Giáo lý cấp giáo phận lên kế hoạch hoạt động theo kế hoạch mục vụ của giáo phận mình, đồng thời liên kết chặt chẽ với đƣờng hƣớng chung đã thống nhất trong các Hội nghị và Đại hội Giáo lý Toàn quốc. Cấp giáo tỉnh
Các giáo phận trong cùng một giáo tỉnh nên kết hợp hoạt động, góp chung kinh nghiệm và việc làm, khả năng và phƣơng tiện, để những giáo phận có nhiều khả năng hơn giúp đỡ các giáo phận khác và có thể soạn thảo một chƣơng trình hành động chung mang tính địa phƣơng124. Ban Giáo lý cấp giáo tỉnh liên kết chặt chẽ với Ban Giáo lý toàn quốc để thống nhất đƣờng hƣớng sinh hoạt chung.
Ban Giáo lý cấp giáo tỉnh gồm một trƣởng ban, một phó ban và một thƣ ký, ngoài ra còn có các thành viên là trƣởng ban giáo lý của các giáo phận trực thuộc giáo tỉnh và các chuyên viên đƣợc mời. Ban Giáo lý cấp giáo tỉnh có trách nhiệm lên kế hoạch triển khai những quyết định chung của Ban Giáo lý Toàn quốc theo tình hình địa phƣơng, đồng thời hỗ trợ và liên đới với các giáo phận trong giáo tỉnh. Ban Giáo lý cấp giáo tỉnh nên tổ 33 chức họp mỗi năm một lần theo chƣơng trình đề nghị của Ban Giáo lý Toàn quốc và nhu cầu của giáo tỉnh. Cấp quốc gia
Ban Giáo lý Toàn quốc đƣợc thiết lập để phối hợp và cổ võ hoạt động giáo lý trong nƣớc, nhằm hỗ trợ các giáo phận trong những công việc vƣợt quá khả năng của giáo phận hay giáo tỉnh, nhƣ nghiên cứu và xuất bản những tài liệu cấp quốc gia, tổ chức những hội nghị giáo lý toàn quốc, phổ biến những thông tin và kế hoạch về giáo lý, phối hợp sinh hoạt và giúp đỡ các giáo phận thiếu trang bị về hoạt động giáo lý125.
Ban Giáo lý Toàn quốc có nhiệm vụ nghiên cứu những vấn đề liên quan đến hoạt động Loan báo Tin Mừng và giáo lý, trong tƣơng quan với sự tiến triển của môi trƣờng xã hội-văn hóa và Hội Thánh trong nƣớc; soạn thảo chƣơng trình mục vụ giáo lý đáp ứng những đòi hỏi và nhu cầu của cộng đoàn Hội Thánh; cổ võ việc thực hiện những dự án mục vụ đã soạn thảo qua việc cung cấp những phƣơng tiện và công cụ để hỗ trợ và định hƣớng; phối hợp hoạt động của Văn phòng giáo lý các giáo tỉnh và các giáo phận cũng nhƣ những tổ chức và cơ chế khác nhƣ học viện giáo lý, trung tâm huấn giáo cấp quốc gia; cổ võ và hỗ trợ việc đào tạo giáo lý viên; biên tập, soạn thảo và xuất bản sách giáo lý và các tài liệu liên quan đến hoạt động giáo lý theo sự ủy thác của Hội đồng Giám mục thông qua Ủy ban Giáo lý Đức tin; phổ biến, theo dõi và đôn đốc thực hiện kế hoạch mục vụ huấn giáo; nghiên cứu và thƣờng xuyên đào sâu những vấn đề liên quan đến hoạt động huấn giáo. Để đạt những mục đích trên, Văn phòng Giáo lý Toàn quốc phải giữ mối dây liên lạc chặt chẽ với Ủy ban Giáo lý Đức tin cũng nhƣ với các văn phòng và những phong trào, tổ chức cấp quốc gia trong lãnh vực giáo lý. 34
Ban Giáo lý Toàn quốc gồm một trƣởng ban, ba phó ban và một thƣ ký do trƣởng ban giáo lý các giáo phận đề cử và đƣợc Đức cha chủ tịch Ủy ban Giáo lý Đức tin phê duyệt. Ban này họp mỗi năm một lần, để thảo luận những vấn đề trong quyền hạn và khả năng của mình. Văn phòng giáo lý toàn quốc do thƣ ký đảm nhận, có trách nhiệm giúp Ban Thƣờng vụ: nối kết và hỗ trợ văn phòng giáo lý các giáo phận; tổ chức đại hội thƣờng kỳ 3 năm một lần cho trƣởng ban giáo lý của các giáo phận và những ngƣời cộng tác với họ nhằm chia sẻ, phổ biến và đào sâu những vấn đề liên quan đến hoạt động huấn giáo; tổ chức hội nghị cấp quốc gia giữa 2 lần đại hội cho trƣởng ban giáo lý của các giáo phận, nhằm tổng kết việc thực hiện những quyết định của lần đại hội trƣớc và chuẩn bị cho lần đại hội sau. Phối hợp các hoạt động giáo lý
Các hoạt động loan báo Tin Mừng nói chung và huấn giáo nói riêng cần đến sự cộng tác tích cực của toàn thể cộng đoàn Dân Chúa126. Sự phối hợp này không chỉ là vấn đề thuần túy chiến lƣợc để làm cho các hoạt động đƣợc hiệu quả hơn, nhƣng còn là vấn đề liên quan đến sứ vụ duy nhất và toàn vẹn của Hội Thánh: duy nhất vì khởi đi và quy hƣớng về Đức Giêsu Kitô, toàn vẹn vì bao gồm nhiều hoạt động từ loan báo Tin Mừng đầu tiên đến tăng trƣởng đức tin và đem Tin Mừng thấm nhập mọi lãnh vực đời sống xã hội và văn hoá127. Ngoài ra, cần có sự thống nhất đƣờng lối, hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành phần Dân Chúa: giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân, giữa các giáo phận, các giáo xứ và các gia đình128.
Cần có sự phối hợp giữa những hình thức dạy giáo lý cho các lứa tuổi và hoàn cảnh xã hội khác nhau, giữa việc dạy giáo lý với những hình thức khác của tác vụ Lời Chúa và loan báo Tin Mừng, giữa sinh hoạt truyền giáo và sinh hoạt dự tòng, giữa 35 hoạt động giáo dục và loan báo Tin Mừng cho mọi đối tƣợng nhất là ấu nhi, thiếu nhi, thiếu niên và giới trẻ129. Kế hoạch giáo lý cấp giáo phận bao gồm những tiến trình dạy giáo lý khác nhau dành cho những đối tƣợng thuộc các lứa tuổi khác nhau130. Để các tiến trình dạy giáo lý khác nhau này có đƣợc sự liên kết chặt chẽ với nhau trong một kế hoạch giáo lý duy nhất, cần quan tâm đến việc dạy giáo lý cho ngƣời trƣởng thành đồng thời lấy nó làm trục chính131. KẾT LUẬN KẾT LUẬN
Những định hƣớng và chỉ dẫn nêu trên nhằm canh tân việc dạy giáo lý để phục vụ hữu hiệu hơn cho công cuộc loan báo Tin Mừng tại Việt Nam. Qua những định hƣớng và chỉ dẫn này, chúng tôi không những muốn làm sáng tỏ bản chất của việc dạy giáo lý và nêu rõ những quy chuẩn hƣớng dẫn việc dạy giáo lý cho hợp với tâm thức và nhu cầu của các tín hữu, mà còn muốn khuyến khích và nuôi dƣỡng niềm hy vọng nơi các mục tử cũng nhƣ các giáo lý viên, những ngƣời đang dấn thân trực tiếp giúp các tín hữu tăng triển trong đức tin132.
Chúng tôi xác tín rằng việc dạy giáo lý hoàn toàn lệ thuộc vào hành động của Thiên Chúa, Đấng hoạt động nhờ Thánh Thần của Ngài, đồng thời hiệu quả của việc dạy giáo lý luôn là ân huệ của Thiên Chúa. Xác tín này giúp giáo lý viên luôn kiên nhẫn trong việc dạy giáo lý, vì biết rằng hạt giống Lời Chúa một khi đƣợc gieo vào tâm hồn vẫn nẩy mầm, lớn lên và sinh hoa kết trái, dù ngƣời gieo thức hay ngủ133.
Chúng ta cùng trao gửi ƣớc nguyện của mình cho Á thánh Anrê Phú Yên - quan thầy các giáo lý viên - ngƣời đã lấy tình 36 yêu đáp lại tình yêu, lấy sự sống đáp đền sự sống và đã trở thành chứng nhân anh dũng của đức tin.
Nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ La Vang, chúng ta nài xin Thiên Chúa làm trổ sinh hoa trái từ những ý hƣớng tốt lành và củng cố nỗ lực canh tân việc dạy giáo lý trong đức tin, đức cậy và đức mến, giúp Hội Thánh tại Việt Nam trào dâng một sức mạnh mới, để không ngừng sinh ra những ngƣời con trong đức tin và giáo dục họ đạt tới sự sung mãn trong Đức Kitô. 37 CHÚ THÍCH
HDTQ 282.
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (HĐGMVN), Thƣ Chung Hậu Đại hội Dân Chúa 2010 gửi toàn thể cộng đồng Dân Chúa Việt Nam. Cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thƣơng và sự sống, 11.
HDTQ 282.
HĐGMVN, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Niên Giám 2016, Hà Nội, Tôn giáo, 2016, 481.
x. http://kehoachviet.com/thap-dan-so-viet-nam-2016/. http://kehoachviet.com/tinh-hinh-dan-viet-nam-2016/
x. http://dantri.com.vn/suc-khoe/dan-so-viet-nam-cham-nguong-90-trieu-nguoi-1383667296.htm. http://kehoachviet.com/tinh-hinh-dan-viet-nam-2016/.
x. http://www.baomoi.com/chenh-lech-ti-so-gioi-tinh-khi-sinh-ngay-cang-gia-tang/c/19966755.epi
x. http://www.baomoi.com/chenh-lech-ti-so-gioi-tinh-khi-sinh-ngay-cang-gia-tang/c/19966755.epi. http://giaothongvantai.com.vn/chinhtri-xahoi/xa-hoi/201312/chenh-lech-gioi-tinh-o-viet-nam-tiep-tuc-tang-433236/
HĐGMVN, Thƣ Chung Hậu Đại hội Dân Chúa 2010 gửi toàn thể cộng đồng Dân Chúa Việt Nam. Cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thƣơng và sự sống, 4.
HĐGMVN, Thƣ Chung Hậu Đại hội Dân Chúa 2010 gửi toàn thể cộng đồng Dân Chúa Việt Nam. Cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thƣơng và sự sống, 6.
x. http://viettimes.net.vn/dan-so-viet-nam-uoc-tinh-927-trieu-nguoi-ty-le-that-nghiep-la-227-64198.html
x. HĐGMVN, Thƣ Chung Hậu Đại hội Dân Chúa 2010 gửi toàn thể cộng đồng Dân Chúa Việt Nam. Cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thƣơng và sự sống, 45.
Hiến pháp nƣớc Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, điều 4, x. http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/toan-van-hien-phap-nuoc-chxhcn-viet-nam-201311281149826.htm
x. http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/tulieuvedang/details.asp? topic=168&subtopic=463&leader_topic=981&id=BT29121139510
HĐGMVN, Thƣ nhận định và góp ý dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, ngày 01/3/2013. 16. x. Báo cáo. Đánh giá bổ sung kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội năm 2015, kết quả thực hiện 5 năm 2011-2015 và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020. (Báo cáo của chính phủ do phó thủ tƣớng Nguyễn Xuân Phúc trình bày tại kỳ họp thứ 11, quốc hội khoá XIII, ngày 21 tháng 3 năm 2016): Những kết quả đạt đƣợc về giáo dục-đào tạo: Mạng lƣới giáo dục, đào tạo đƣợc mở rộng, quy mô và chất lƣợng đƣợc nâng lên. Đẩy mạnh dạy nghề, nhất là cho lao động nông thôn; tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt 51,6%. Những hạn chế, yếu kém chủ yếu: chất lƣợng giáo dục, đào tạo chƣa đáp ứng yêu cầu, thiếu lao động chất lƣợng cao. Đổi mới giáo dục, đào tạo có mặt còn lúng túng, chƣa gắn chặt chẽ với nhu cầu xã hội. Tình trạng mất cân đối trong cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo khắc phục chậm. 38 x. http://baochinhphu.vn/Tin-noi-bat/Toan-van-Bao-cao-cua-Chinh-phu-tai-ky-hop-thu-11-Quoc-hoi-khoa-XIII/250204.vgp
Sóc Vui Vẻ - Nguyễn Đức Lập, Truyền thống dân tộc Việt Nam, x. http://www.hdvietnam.de/web/?id=142 18. Theo thống kê năm 2009, đạo Cao Đài có trên 1 vạn chức sắc, gần 3 vạn chức việc, khoảng 5 triệu tín đồ, 958 tổ chức, x. https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_%C4%91%E1%BA%A1o_Cao_%C4%90%C3%A0i 19. Theo thống kê năm 2009, có khoảng 1.433.252 tín đồ Phật giáo Hòa Hảo, số tín đồ đông thứ 4 tại Việt Nam, x. https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%ADt_gi%C3%A1o_H%C3%B2a_H%E1%BA%A3o.
Trong số hơn 90 triệu dân, có 85% nhận mình theo niềm tin Phật giáo (dù chỉ có 8% thực hành đạo thƣờng xuyên), 8% theo Kitô giáo mà đa số là Công Giáo (6.7%), ngoài ra còn có các tín đồ của Islam (64.000): chanlyislam.net/home/modules.php?name=News&op=viewst&sid=191www.worldpopulationstatistics.com/vietnam-population-2013; và cộng đồng tôn giáo Baha’i (7.400): Ban Tôn giáo Chính phủ (www.mattran.org.vn/Home/TapChi/so%2057/hdll.htm).
HĐGMVN, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam Niên Giám 2016, Hà Nội, Tôn giáo, 2016, 480-481.
Nguyễn Hoàng, 8.000 lễ hội mỗi năm khiến ngƣời Việt tụt hậu, nguồn: http://vnexpress.net/tin-tuc/cong-dong/8-000-le-hoi-moi-nam-khien-nguoi-viet-tut-hau-2952576.html
http://vanhocquenha.vn/vi-vn/113/49/van-hoc-va-van-hoa-tam-linh-nhung-bien-chuyen-xua--nay/122107.html
x. HĐGMVN, Thƣ Chung về giáo dục đức tin năm 2007. Giáo dục hôm nay, Xã hội và Hội Thánh ngày mai, 17.
Cha mẹ là những nhà giáo dục đầu tiên về đức tin cho con cái mình, x. HDTQ 226-227.
Dạy giáo lý là trách nhiệm của tất cả cộng đoàn, x. HDTQ 220-211.
x. GM. Giuse Nguyễn Năng, Tân Phúc-âm-hóa để thông truyền đức tin Kitô giáo trong lãnh vực huấn giáo, Tham luận tại Đại hội Giáo lý Toàn quốc lần IV, Huế, 2014. 28. x. HĐGMVN, Thƣ Chung gửi cộng đồng Dân Chúa 2007, Giáo Dục Hôm Nay, Xã Hội Và Giáo Hội Ngày Mai, 15; x. Sứ Điệp Của Thƣợng Hội Đồng Giám Mục Về Tân Phúc Âm Hóa Gởi Dân Chúa, 7-28/10/2012, Tý Linh chuyển ngữ từ bản tiếng Pháp, có tham khảo bản tiếng Anh, https://xuanbichvietnam.wordpress.com/2012/10/29/su-diep-cua-thuong-hoi-dong-giam-muc-ve-tan-phuc-am-hoa-goi-dan-chua/
Ủy ban Giáo lý Đức tin, Đại hội Giáo lý Toàn quốc 2014, Bản Ghi Nhớ, số 4 và 6.
HĐGMVN, Thƣ Chung Hậu Đại hội Dân Chúa 2010 gửi toàn thể cộng đồng Dân Chúa Việt Nam, Cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thƣơng và sự sống, 8. 31. Đối thoại với ngƣời nghèo bằng cách sống nghèo và ƣu tiên chọn lựa ngƣời nghèo; đối thoại với các nền văn hóa và các truyền thống tôn giáo khác nhau bằng cách khám phá và phát triển những hạt giống Tin Mừng trong các nền văn hóa và tôn giáo ấy; đối thoại với ngƣời vô thần bằng cách coi trọng lý trí, tự do, hạnh phúc của con ngƣời, hun đúc niềm hy vọng về một thế giới mới khởi đi từ việc chu toàn bổn phận trần thế, x. HĐGMVN, Thƣ Chung Hậu Đại hội Dân Chúa 2010 gửi toàn thể cộng 39 đồng Dân Chúa Việt Nam, Cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thƣơng và sự sống, ss. 39, 40, 41, 42; x. Tông huấn Hội Thánh tại Á Châu, 29; x. CĐ Vaticanô II, Hiến chế Vui mừng và Hy vọng Gaudium et Spes, 20, Bản dịch tiếng Việt của UBGLĐT 2012.
Theo dã sử, tháng 3 năm 1533, một ngƣời châu Âu tên là Inêkhê đến truyền giáo ở làng Ninh Cƣờng, huyện Nam Chân và làng Trà Lũ, huyện Giao Thủy, Nam Định (Bùi Chu), x. Văn Phòng Tổng Thƣ Ký HĐGMVN, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, Niên giám 2004, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội, 2004, 204.
x. Văn Phòng Tổng Thƣ Ký HĐGMVN, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, Niên giám 2004, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội, 2004, 204-225. 34. HĐGMVN, Thƣ Chung 1980 của Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi toàn thể linh mục, tu sĩ và giáo dân cả nƣớc, 17: “Nhìn về quá khứ, chúng tôi cảm mến sâu sắc bàn tay nhân lành của Thiên Chúa, đã êm ái và mạnh mẽ hƣớng dẫn Hội Thánh Ngƣời trên đất nƣớc Việt Nam của chúng ta. Chúng tôi biết ơn công lao của vô vàn tín hữu đã làm sáng tỏ đức tin và lòng yêu nƣớc của mình”.
x. F.X. Nguyễn Hai Tính S.J., “Sơ lƣợc về cuốn Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông”, trong Girolamo Maiorica S.J., Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông, Nhóm dịch thuật Hán Nôm Công Giáo Tổng Giáo Phận Tp.HCM, Lƣu hành nội bộ, 2014. Tác phẩm Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông (TCTGKM) của linh mục Dòng Tên Girolamo Maiorica (1591-1656) là cuốn giáo lý đầu tiên viết bằng văn Việt (dƣới dạng chữ Nôm) đƣợc soạn thảo dựa trên cuốn Giáo lý ngắn của Bêllarminô (Dottrina cristiana breve 1597): theo sát cấu trúc và hình thức (hỏi thƣa); lấy ý từ Giáo lý công đồng Trentô xuất bản năm 1566.
x. Borgia Trần Văn Khả, “Việc dạy giáo lý thời kỳ Cha Đắc Lộ”, trong Rực sáng một vì sao. Tìm về chân dung Á thánh Anrê Phú Yên (1625-1644), Nxb Tôn Giáo, 2016, 82-91. 37. x. Quyên Di (tuyển lọc tài liệu, hiệu đính và nhận định), Cha Đắc Lộ: mẫu gƣơng truyền bá đức tin với tinh thần sáng tạo và hội nhập văn hoá, http://loanbaotinmung.net/noidung/417 38. x. Quyên Di (tuyển lọc tài liệu, hiệu đính và nhận định), Cha Đắc Lộ: mẫu gƣơng truyền bá đức tin với tinh thần sáng tạo và hội nhập văn hoá, http://loanbaotinmung.net/noidung/417 39. x. Quyên Di (tuyển lọc tài liệu, hiệu đính và nhận định), Cha Đắc Lộ: mẫu gƣơng truyền bá đức tin với tinh thần sáng tạo và hội nhập văn hoá, http://loanbaotinmung.net/noidung/417 40. Bộ Truyền giảng Phúc Âm cho các Dân tộc gọi tắt là Bộ Truyền giáo (Congregatio pro Gentium Evangelisatione) hƣớng dẫn và phối hợp các công cuộc truyền giáo của Công giáo trên khắp thế giới, vận động sự hỗ trợ về tinh thần và tài chính cho hoạt động truyền giáo.
HĐGMVN, Thông báo về việc tôn kính tổ tiên, Ban hành tại Đà Lạt, ngày 14 tháng 6 năm 1965, x. Sacerdos-Linh Mục Nguyệt San, số 43, tháng 7-1965, trang 489-492.
F.X. Nguyễn Hai Tính S.J., “Sơ lƣợc về cuốn Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông”, trong Girolamo Maiorica S.J., Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông, Nhóm dịch thuật Hán Nôm Công Giáo Tổng Giáo Phận Tp.HCM, Lƣu hành nội bộ, 2014, tr. 344. 40
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A9p_gi%E1%BA%A3ng_t%C3%A1m_ng%C3%A0y
Trần Văn Toàn, Bàn về thuyết “Tam Phụ” trong đạo Thiên Chúa: Một bƣớc đi vào văn hóa Việt Nam, http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=97&ia=9178
http://bangiaoly.net/tri-thuc/than-hoc/sach-giao-ly-tieng-viet-tu-1651-den-1991/
Giáo phận Cần Thơ, Ban mê thuột, Long Xuyên, Mỹ Tho, Vĩnh Long.
Những thuận lợi và khó khăn trong việc hội nhập niềm tin Kitô giáo vào văn hóa VN: Về thuận lợi: Ngƣời dân VN có sẵn một niềm tin vào Trời - cảm thức tôn giáo rất mạnh; Tin vào sự thƣởng phạt đời sau; Quý trọng các nhân đức, các tƣơng quan xã hội. Về khó khăn: Tôn giáo độc thần, ngƣợc với bối cảnh đa nguyên về tôn giáo; Chống lại việc đa thê (trong khi xã hội Nho giáo lại trọng nam khinh nữ, “nam năm thê bảy thiếp”); Không tham gia các nghi lễ tế tự ở địa phƣơng (vì chỉ thờ kính một Đức Chúa Trời); Bài bác một số tục lệ về tang tế; Giáo dân trung thành với các thừa sai (xung khắc với xã hội phong kiến tập quyền nơi mà quyền vua là tối thƣợng), x. Antôn-Phaolô Trần Quốc Anh, SJ., Thuyết Tam Phụ và Đạo Hiếu: Một Nỗ Lực Hội Nhập Thần Học Trong Nền Văn Hoá Nho Giáo Tại Việt Nam Thời Xƣa, http://dongten.net/noidung/37552
Lm. Trần Anh Dũng, Paris, Sử Lƣợc Hội Thánh Công Giáo Việt Nam (1533-2000), http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/GiaoHoiVN/LichSu/LichSuGHCGVN.htm 49. Thầy giảng Anrê Phú yên tử đạo ngày 27-06-1644, đƣợc Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong lên hàng chân phƣớc vào ngày 05-03 tại Quảng Trƣờng Thánh Phêrô dịp Ðại Năm Thánh 2000, x. Lm. Trần Anh Dũng, Paris, Sử Lƣợc Hội Thánh Công Giáo Việt Nam (1533-2000), http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/GiaoHoiVN/LichSu/LichSuGHCGVN.htm 50. Cha Martial Jannin Phƣớc, sau là Giám Mục Tiên Khởi Giáo Phận Kontum (23/06/1933 – 16/07/1940), x. http://giaophankontum.com/Giao-Ly-9_%C3%90uc-Cha-Martial-Jannin-Phuoc-Giam-Muc-Tien-Khoi-Giao-Phan-Kontum.aspx. „Công đầu trong việc thành lập trƣờng này thuộc về Cha Martial Jannin Phƣớc. Thật vậy, mặc dù gặp nhiều chống đối, nhƣng Cha Martial Jannin Phƣớc vẫn quyết tâm thực hiện chƣơng trình của mình: ngài can đảm gánh vác công việc và lên chƣơng trình đào tạo Yao Phu một cách chính qui và có hiệu năng trong một môi trƣờng chuyên biệt. Đến năm 1905, ngài cho xúc tiến xây dựng Trƣờng đào tạo các Yao Phu và hoàn tất vào cuối năm 1907. Chính Ngài đã dám thực hiện mẫu ngƣời Yao Phu theo cung cách huấn luyện Thầy Giảng ở Trung Châu. Ngài là linh hồn của công trình trọng điểm này“, x. http://giupkontum.org/vi-VN/chuyevuibuon/303-thietlaptongtoakontum 51. x. https://gpkontum.files.wordpress.com/2014/08/so-luoc-tieu-su-giao-phan-kontum2.pdf. x. http://www.cgvdt.vn/cong-giao-viet-nam/giao-phan-kontum-mung-kinh-thanh-to-va-ngay-hoi-yao-phu-2015_a2251
F.X. Nguyễn Hai Tính S.J., “Sơ lƣợc về cuốn Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông”, trong Girolamo Maiorica S.J., Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông, Nhóm dịch thuật Hán Nôm Công Giáo Tổng Giáo Phận Tp.HCM, Lƣu hành nội bộ, 2014, 363.
x. HDTQ 35.
x. HDTQ, 81. 41
EN 14; HDTQ 46.
x. HDTQ 49.
x. HDTQ 59.
Thánh Cyrille De Jerusalem: Catecheses illuminandorum I, 11: PG 33, 351-352.
x. HDTQ 64.
x. HDTQ 36 và 42.
CT 27.
DV 9.
DV 9.
DV 10b.
DV 10c.
x. HDTQ 96.
HDTQ 80 và 82.
x. HDTQ 81.
x. HDTQ 82.
x. HDTQ 144.
x. HDTQ 84.
x. HDTQ 288.
x. EN 75d.
HDTQ 288.
x. HDTQ 139-140.
x. HDTQ 137; x. Vâng phục trong đức tin, HDTQ 45 và 54.
x. HDTQ 141-144.
x. HDTQ 145 và 149.
x. HDTQ 111 và 112.
x. HDTQ 149 và 152.
HDTQ 145 và 151. 82. x. CĐ Vaticanô 2, Hiến chế Tín lý về Giáo Hội, Ánh sáng muôn dân Lumen Gentium 1, Bản dịch tiếng Việt của UBGLĐT 2012.
HĐGMVN, Thƣ Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010, 13.
HĐGMVN, Thƣ Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010, 10.
HĐGMVN, Thƣ Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010, 16.
HĐGMVN, Thƣ Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010, 39.
HĐGMVN, Thƣ Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010, 11.
x. HDTQ 81.
x. Ủy ban Giáo lý đức tin (UBGLĐT), Đại hội Giáo lý Toàn quốc Việt Nam 2014, Bản Ghi Nhớ 2.
x. UBGLĐT, Đại hội Giáo lý Toàn quốc Việt Nam 2014, Bản Ghi Nhớ 4.
x. UBGLĐT, Đại hội Giáo lý Toàn quốc Việt Nam 2014, Bản Ghi Nhớ 6.
x. UBGLĐT, Đại hội Giáo lý Toàn quốc Việt Nam 2014, Bản Ghi Nhớ 6.
x. UBGLĐT, Đại hội Giáo lý Toàn quốc Việt Nam 2014, Bản Ghi Nhớ 7. 42
x. UBGLĐT, Đại hội Giáo lý Toàn quốc Việt Nam 2014, Bản Ghi Nhớ 6.
Gioan-Phaolô II, Tông huấn Kitô-Hữu Giáo Dân (Christifideles laici) Về Ơn Gọi Và Sứ Mạng Của Giáo Dân Trong Giáo Hội Và Thế Giới, 30/12/1988, 32.
x. HDTQ 234.
x. HDTQ 234.
x. HDTQ 59.
x. HDTQ 219. 234. 156.
x. HDTQ 233-234.
x. HDTQ 221.
x. HDTQ 235; DGC (1971) 111.
x. HDTQ 236.
Bộ Rao giảng Phúc Âm cho các Dân tộc, Chỉ dẫn dành cho Giáo lý viên, 1992, 18.
x. HDTQ 235-236.
x. HDTQ 237.
x. HDTQ 237.
x. HDTQ 238.
x. HDTQ 238-239.
x. HDTQ 240-247.
x. HDTQ 248-251.
x. HDTQ 131.
x. HDTQ 131-132.
x. HDTQ 133-135; CĐ Vaticanô 2, Hiến chế Mục vụ Vui mừng và hy vọng Gaudium et Spes 62b, Bản dịch tiếng Việt của UBGLĐT 2012.
x. HDTQ 136. 116. Giáo Luật, điều 777, Bộ Giáo Luật 1983, Bản dịch năm 2006 của HĐGMVN, http://giaoluatconggiao.com/download/Tai-lieu/BO-GIAO-LUAT-1983-Ban-dich-HDGMVN-2006.html. 117. Giáo Luật, điều 776, Bộ Giáo Luật 1983, Bản dịch năm 2006 của HĐGMVN, http://giaoluatconggiao.com/download/Tai-lieu/BO-GIAO-LUAT-1983-Ban-dich-HDGMVN-2006.html. 118. Giáo Luật, điều 776, Bộ Giáo Luật 1983, Bản dịch năm 2006 của HĐGMVN, http://giaoluatconggiao.com/download/Tai-lieu/BO-GIAO-LUAT-1983-Ban-dich-HDGMVN-2006.html.
x. HDTQ 267.
x. HDTQ 265. 121. Giáo Luật, điều 775 §1, Bộ Giáo Luật 1983, Bản dịch năm 2006 của HĐGMVN, http://giaoluatconggiao.com/download/Tai-lieu/BO-GIAO-LUAT-1983-Ban-dich-HDGMVN-2006.html. 122. Giáo Luật, điều 780, Bộ Giáo Luật 1983, Bản dịch năm 2006 của HĐGMVN, http://giaoluatconggiao.com/download/Tai-lieu/BO-GIAO-LUAT-1983-Ban-dich-HDGMVN-2006.html. 43
x. HDTQ 267.
x. HDTQ 268.
x. HDTQ 269.
“... Trong Hội Thánh, ta không thể phó mặc mọi điều trên cho may rủi hay ứng biến bừa bãi. Chúng đòi một cam kết chung đối với một phƣơng án mục vụ có thể gợi lên điều chủ chốt nghĩa là đặt trọng tâm vào Đấng chủ chốt, tức Chúa Giêsu Kitô”, Bài diễn văn ngày 14/10/2012 của Đức Phanxicô với Hội nghị Toàn thể của Hội đồng Giáo Hoàng về việc cổ vũ Tân Phúc Âm Hóa, Bản dịch tiếng Việt của Vũ Văn An, http://vietcatholic.com/News/Html/117622.htm.
x. HDTQ 272.
x. UBGLĐT, Đại hội Giáo lý Toàn quốc Việt Nam 2014, Bản Ghi Nhớ, số 7.
x. HDTQ 273.
x. HDTQ 274. 131 x. HDTQ 275.
x. HDTQ 286-287.
x. HDTQ 288-289. 44 MỤC LỤC DẪN NHẬP (1-4) ................................................................................ 1 PHẦN THỨ NHẤT BỐI CẢNH (6-23) ............................................................................... 2 I. THỰC TRẠNG XÃ HỘI (6-11) ............................................................. 2 Về dân số (6) ................................................................................... 2 Về kinh tế (7) ................................................................................... 3 Về chính trị (8) ................................................................................. 4 Về giáo dục (9) ................................................................................ 4 Về văn hóa (10) ............................................................................... 5 Về tôn giáo (11) ............................................................................... 5 II. THỰC TRẠNG VIỆC DẠY GIÁO LÝ (12-17) ......................................... 6 Về mục tiêu (12) .............................................................................. 6 Về nhiệm vụ (13) ............................................................................. 7 Về phƣơng pháp (14) ....................................................................... 7 Về tổ chức (15) ............................................................................... 7 Về đối tƣợng (16) ............................................................................. 8 Về môi trƣờng (17) ........................................................................... 8 III. NHẬN ĐỊNH CHUNG (18-23) ........................................................... 9 PHẦN THỨ HAI ĐỊNH HƯỚNG CỦA HỘI THÁNH VỀ VIỆC DẠY GIÁO LÝ (24-51) ... 12 I. TRUYỀN THỐNG DẠY VÀ HỌC GIÁO LÝ TẠI VIỆT NAM (25-34) ......... 13 Nỗ lực hội nhập văn hóa (26-29) ..................................................... 13 Nỗ lực biên soạn (30-31) ................................................................ 14 Nỗ lực đào tạo giáo lý viên (32-34) ................................................. 15 II. HƢỚNG DẪN TỔNG QUÁT VIỆC DẠY GIÁO LÝ 1997 (35-44) ............ 17 Dạy giáo lý là hoạt động của Hội Thánh (36) ................................... 17 Dạy giáo lý là tác vụ Lời Chúa (37-40) ............................................. 18 Dạy giáo lý là giáo dục đức tin (41-43) ............................................ 19 III. ĐỊNH HƢỚNG CỦA HỘI THÁNH TẠI VIỆT NAM (45-51) .................. 21 Về sự hiệp thông với Thiên Chúa (47) .............................................. 21 Về sự hiệp thông với Hội Thánh (48) ............................................... 22 Về sự hiệp thông với mọi ngƣời trong xã hội (49-51) ........................ 22 45 PHẦN THỨ BA NHỮNG HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH (52-57) .................................... 24 I. VỀ VIỆC DẠY GIÁO LÝ (53) ............................................................. 24 Hiệp thông với Thiên Chúa (54)....................................................... 25 Hiệp thông với Hội Thánh (55) ........................................................ 25 Hiệp thông với mọi ngƣời (56) ........................................................ 26 Sự hiệp thông truyền giáo (57) ....................................................... 26 II. VỀ VIỆC ĐÀO TẠO GIÁO LÝ VIÊN (58-61) ....................................... 27 Sự cần thiết và tầm quan trọng (58) ................................................ 27 Mục đích và bản chất (59) .............................................................. 27 Tiêu chuẩn và chiều kích (60-61)..................................................... 28 III. VỀ VIỆC SOẠN THẢO SÁCH GIÁO LÝ (62-64) ................................. 29 Sự cần thiết và các đặc tính (62) ..................................................... 29 Sự thích nghi và sáng tạo (63) ........................................................ 29 Sự hài hòa và thống nhất (64) ........................................................ 30 IV. VỀ VIỆC TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁO LÝ (65-77) .................... 30 Cấp giáo xứ (66) ............................................................................ 30 Cấp giáo hạt (67) ........................................................................... 31 Cấp giáo phận (68-69) .................................................................... 31 Cấp giáo tỉnh (70-71) ..................................................................... 32 Cấp quốc gia (72-74) ...................................................................... 33 Phối hợp các hoạt động giáo lý (75-77) ........................................... 34 KẾT LUẬN (78-80) ............................................................................ 35 CHÚ THÍCH ....................................................................................37 46
Last updated
Was this helpful?