Lời nói đầu
LỜI NÓI ĐẦU Tông huấn “Dạy Giáo lý trong thời đại chúng ta” của Đức Gioan-Phaolô II ban hành ngày 16.10.1979, đã là kim chỉ nam cho công cuộc Dạy Giáo lý của chúng ta. Dựa theo tông huấn này và bản HƯỚNG DẪN GLV của Bộ Phúc Âm hóa các dân tộc, ban hành ngày 3.12.1993, cũng như các phương pháp dạy giáo lý, chúng ta thử cùng nhau nhận định một số nét chủ yếu trước khi vào giáo án “ĐẾN BÀN TIỆC THÁNH”. I. SỨ MỆNH TRUYỀN GIẢNG GIÁO LÝ : Việc truyền giảng giáo lý luôn được Hội thánh coi là một trong những nhiệm vụ tối quan trọng của mình, vì trước khi lên cùng Cha Người, Chúa Giê-su phục sinh đã ban cho các Tông đồ một huấn lệnh sau cùng : Làm cho mọi dân tộc trở nên môn đệ và dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Người đã truyền (x.Mt 28,19-20). Như vậy, Người trao cho các Tông đồ sứ mệnh và quyền năng loan truyền cho nhân loại điều mà chính các ông đã được nghe, được thấy tận mắt, được ngắm, sờ bằng tay về Ngôi Lời ban sự sống (x. 1 Ga 1,1). Đồng thời Người ban cho các ông sứ mệnh và quyền năng giải thích một cách có thẩm quyền điều mà Người đã dạy các ông, lời nói và việc làm của Người. Và Người ban cho các ông Thần Khí để hoàn thành sứ mạng ấy. Từ rất sớm người ta đã dùng từ ngữ “Dạy giáo lý” để gọi toàn thể các nỗ lực trong Hội thánh nhằm đào tạo các tín hữu để giúp nhân loại tin rằng Đức Ki-tô là Con Thiên Chúa, ngõ hầu nhờ đức tin, họ được sống nhân danh Người (x. Ga 20,31) để giáo dục và dạy dỗ họ trong cuộc sống ấy và nhờ thế, xây dựng thân mình của Đức Ki-tô. Hội thánh không ngừng dồn năng lực vào công việc ấy (DGL. 1). Nơi số 14, Đức Gioan-Phaolô II còn khẳng định việc dạy giáo lý là quyền lợi và bổn phận của Hội thánh như sau : “Hiển nhiên là đối với Hội thánh, việc dạy giáo lý bao giờ cũng là bổn phận thiêng liêng và một quyền lợi bất khả xâm phạm. Một mặt, đó hẳn là một bổn phận nảy sinh do mệnh lệnh của Chúa và đè nặng nhất là trên vai những kẻ, trong giao ước mới, nhận được ơn gọi vào thừa tác vụ chủ chăn. Mặt khác, cũng có thể nói, là một quyền lợi : về phương diện thần học, mọi người đã được Rửa tội, chính do phép Rửa tội, đều có quyền được Hội thánh giảng dạy và huấn luyện, nhờ đó họ có thể tiến tới đời sống Ki-tô đích thực. Trên bình diện nhân quyền, mọi nhân vị đều có quyền tìm kiếm chân lý tôn giáo, không ai bị ép buộc hành động trái lương tâm mình, cũng không ai bị cản trở trong việc hành động theo lương tâm mình” (Tuyên ngôn tự do tôn giáo số 2). Nơi số 15, Tông huấn viết tiếp : “Trong thế kỷ 20 sắp kết thúc này... Hội thánh được Thiên Chúa kêu gọi canh tân niềm hy vọng của mình trong hoạt động “Dạy Giáo Lý” được coi như một nhiệm vụ tối thượng của sứ mệnh mình. Hội thánh được kêu mời dành cho việc dạy giáo lý những tài nguyên quí giá nhất của mình về nhân sự và năng lực, mà không quản ngại những cố gắng, những mệt nhọc và phương tiện vật chất, để tổ chức việc dạy giáo lý cho chu đáo hơn và đào tạo những nhân viên thành thạo (DGL. 15). Việc dạy giáo lý vẫn là và sẽ còn là một công cuộc mà toàn thể Hội thánh phải cảm thấy và muốn gánh chịu trách nhiệm. Các thành viên của Hội thánh cũng có những trách nhiệm riêng biệt phát sinh từ sứ mệnh của mỗi người : - Do chức vụ của mỗi người và ở cấp bậc khác nhau, các vị chủ chăn có trách nhiệm trên hết trong việc nâng cao, hướng dẫn và phối trí việc Dạy Giáo lý. Các Giám mục là người trách nhiệm trước tiên về việc dạy giáo lý, là giáo lý viên đúng nghĩa nhất. Vai trò chính của Giám mục là khơi dậy và gìn giữ trong Giáo phận một sự say mê dạy Giáo lý, sự say mê được thể hiện trong một số tổ chức thích hợp và hữu hiệu, vận dụng người, phương tiện, dụng cụ và các tài nguyên cần thiết. Xin Anh em tin chắc rằng nếu việc dạy giáo lý tiến hành đúng đắn trong Giáo hội địa phương, thì mọi việc khác sẽ trôi chảy. Về phần mình, vị Giáo Hoàng ý thức sâu xa trách nhiệm tối cao của mình trong lãnh vực này : Ngài tìm thấy trong đó lý do của sự ân cần mục vụ, nhưng nhất là nguồn vui mừng và hy vọng. - Đối với các Linh mục : đây là một địa hạt đặc biệt cho việc Tông đồ của họ : “Công đồng đã gọi các Linh mục là “NGƯỜI GIÁO DỤC ĐỨC TIN” : Các Ngài có thể nào làm người giáo dục đức tin hoàn hảo bằng phương pháp nào khác hơn là bằng cách dành phần tối hảo cho các nỗ lực để làm tăng trưởng cộng đoàn của các Ngài trong đức tin không ? Tất cả các chủ chăn đều có bổn phận lo liệu việc ấy. Tất cả những người có đức tin đều có quyền học giáo lý... đừng để vì thiếu một sự nhiệt thành nào, do một thiên kiến bất lợi nào mà các tín hữu không được học giáo lý. Đừng để ai có thể nói : “Các trẻ nhỏ đòi bánh nhưng không ai chia cho chúng”. - Còn các tu sĩ nam nữ : “Qua dòng lịch sử, các tu sĩ nam nữ đã rất tận tuỵ trong hoạt động dạy giáo lý của Hội thánh bằng cách thực hiện một công cuộc đặc biệt thích hợp và hữu hiệu... Trong lúc người ta muốn tăng cường dây liên kết giữa các tu sĩ và chủ chăn, và do đó, tăng cường sự hiện diện tích cực của các cộng đoàn Tu sĩ và của các thành viên của các cộng đoàn ấy trong kế hoạch mục vụ của các Hội thánh địa phương, Cha hết lòng khuyên các con, là những người nhờ sự thánh thiện trong dòng, càng sẵn sàng phục vụ Hội thánh. Cha khuyên các con hãy dọn mình càng kỹ lưỡng càng tốt cho nhiệm vụ dạy giáo lý... đi đâu cũng đem theo mối bận tâm ấy. Chớ gì các Hội dòng dành tối đa khả năng và nghị lực vào công cuộc Dạy giáo lý”. - Với các Giáo lý viên giáo dân : “Nhân danh toàn thể Hội thánh, Cha cám ơn các con là những giáo lý viên của giáo xứ, những giáo dân nam nữ khắp nơi trên thế giới đang tận tụy trong việc giáo dục đạo giáo cho nhiều thế hệ. Hoạt động các con nhiều khi khiêm tốn và kín đáo, nhưng nhiệt thành hăng say và quảng đại, là một hình thức tuyệt vời của tông đồ giáo dân, đặc biệt quan trọng ở những nơi mà, vì nhiều lý do khác nhau, các trẻ nhỏ và thanh niên không được huấn luyện đạo giáo một cách xứng hợp trong gia đình chúng... Đại hội IV của Thượng Hội Đồng Giám Mục đã không quên các con. Cùng với Đại hội, Cha khuyến khích các con luôn tiếp tục cộng tác vào đời sống của Hội thánh”. - Ở cấp bậc khác, các phụ huynh có trách nhiệm riêng biệt : hoạt động dạy giáo lý của gia đình có tính cách đặc biệt và có thể nói, không thể thay thế được, đã được Hội thánh nhấn mạnh một cách chí lý, đặc biệt do Công Đồng Vat II... Gia đình là trường học đầu tiên và cha mẹ là thầy cô thứ nhất của trẻ nhỏ. Việc dạy giáo lý trong gia đình đi trước, kèm theo và làm phong phú mọi hình thức khác của việc dạy giáo lý. Tất cả mọi người, ở các trình độ khác nhau, đều có trách nhiệm rất rõ rệt trong việc giáo dục lương tâm tín hữu. Việc giáo dục này rất quan trọng cho đời sống Hội thánh (x. DGL. 15. 16. 63-68). II. MỤC ĐÍCH VIỆC DẠY GIÁO LÝ : 1. Mục đích tiên khởi của việc dạy giáo lý là giúp cho con người tin Đức Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa, để nhờ tin mà họ được sống nhân danh Người. (x. DGL. 1). 2. Mục đích đặc biệt lâu dài của việc dạy giáo lý là làm phát triển đức tin còn thơ ấu thăng tiến tới trình độ trưởng thành, viên mãn (x. DGL 20). 3. Mục đích thiết thực của việc dạy giáo lý chính là nhằm nuôi dưỡng đời sống Ki-tô hữu thuộc mọi lứa tuổi được hấp thụ và thấm nhuần giáo lý của Chúa, được biến đổi thành thụ tạo mới do tác động của ơn thánh Chúa (DGL 20). Để đạt mục đích trên, ta cần phải biết rõ đường hướng căn bản của thần học mục vụ về khoa dạy giáo lý hiện nay. III. ĐƯỜNG HƯỚNG CỦA KHOA DẠY GIÁO LÝ NGÀY NAY : 1. Mọi khoa dạy giáo lý chân chính hiện nay đều phải lấy Đức Ki-tô làm trung tâm (Christocentrique). Quan điểm này đã được Thượng Hội Đồng Giám mục thế giới khóa IV chuẩn nhận và khẳng định (x. DGL 5) : a) Ở trung tâm của khoa dạy giáo lý phải có Chúa Giê-su Thành Na-da-réth. Người là đối tượng cốt yếu của khoa dạy giáo lý. b) Dạy giáo lý là phải dẫn đưa người ta đến với Chúa Ki-tô, giúp người ta dò thấu mầu nhiệm Chúa Ki-tô. c) Dạy giáo lý phải là bày tỏ ý định vĩnh cửu của Thiên Chúa nơi Ngôi vị Chúa Ki-tô. d) Dạy giáo lý là tìm hiểu ý nghĩa mọi cử chỉ, lời nói, hành động, các phép lạ Chúa Giê-su đã thực hiện, những phép lạ ấy vừa biểu lộ vừa che giấu mầu nhiệm của Người. 2. Theo đường hướng này, mục đích tối hậu của việc dạy giáo lý là làm cho người ta không những gặp gỡ mà còn sống THÔNG HIỆP THÂN MẬT với Chúa Ki-tô, vì chỉ mình Người mới có thể đưa ta đến tình yêu Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần (DGL 5). Mặt khác, dạy giáo lý có tích cách Ki-tô-hướng còn có ý nghĩa là : mỗi người dạy không được phép thông truyền học thuyết riêng của mình, hay là một học thuyết của ông thầy nào khác ; nhưng dạy giáo lý là ta phải thông truyền giáo lý của Chúa Giê-su Ki-tô, phải dạy chân lý chính Người thông ban ; nói đúng hơn chính Người là hiện thân chân lý (DGL 6). 3. Dạy giáo lý quy chiếu về Đức Ki-tô có nghĩa là : (DGL 7.8). a) Trong việc giảng dạy phải làm sao cho thấy chính Chúa Ki-tô, Ngôi Lời nhập thể, Con Thiên Chúa hiện diện, Người đang giảng dạy. Các giáo lý viên chỉ là phát ngôn viên của Người, họ để Người dùng môi miệng họ mà giảng dạy. b) Do đó, mối bận tâm thường xuyên của mọi GLV là phải thông truyền nguyên vẹn giáo lý của Chúa Giê-su. Họ không được phép qui chiếu về mình, không được lấy ý kiến riêng và thái độ cá nhân mình làm trọng tâm cho người thụ huấn. Họ không được ghi tạc vào lòng học viên ý kiến, cảm nghĩ cá nhân của mình như thể đó là những tư tưởng, cảm nghĩ, giáo lý của Chúa. Mỗi giáo lý viên phải áp dụng cho mình bí quyết dạy giáo lý mà chính Chúa Ki-tô đã phán : “Đạo Ta dạy, không phải là của Ta, nhưng là của Đấng đã sai Ta” (Ga 7,16) hoặc như Thánh Phaolô diễn tả : “Tôi đã chịu lấy nơi Chúa điều mà tôi truyền lại cho anh em” (1 Cr 11,23). 4. Vậy để hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy giáo lý theo đường hướng này, GLV (DGL 6) : a) Phải chuyên cần học hỏi Lời Chúa ; b) Phải có đời sống nội tâm kết hợp mật thiết với Chúa ; c) Phải có tinh thần cầu nguyện liên tục ; d) Phải có thói quen từ bỏ mình cao độ. Tóm lại, tất cả đường hướng giáo lý qua truyền thống Hội thánh là củng cố trong ta lòng yêu mến Chúa Ki-tô. Người là Thầy sự thật, Đấng cứu thoát, thánh hóa và hướng dẫn ta. Đấng hằng sống, Đấng nói, lay động, gây cảm xúc, uốn nắn, xét xử, tha tội và hằng ngày Người cùng đi với chúng ta trên con đường lịch sử “cho đến tận thế” (DGL 9). Nên, ta phải có đời sống thông hiệp sâu xa với Người, GLV mới tìm thấy ánh sáng và sức mạnh cho việc canh tân đích thực công cuộc dạy giáo lý mà chúng ta hằng mong đợi (DGL 9). IV. DẠY GIÁO LÝ CÁCH NÀO ? 1. Việc dạy giáo lý, nhất là cho trẻ em và giới trẻ trong thời đại chúng ta thôi thúc chúng ta phải tự hỏi (DGL 35) : a) Làm cách nào trình bày cho thiếu nhi và thanh niên biết Chúa Ki-tô, Thiên Chúa làm người ? b) Làm thế nào cho Giới Trẻ GẶP GỠ được Chúa Ki-tô bằng chính sự hiểu biết, cảm nghiệm bản thân họ, không phải chỉ bồng bột, nhưng ngày càng sâu sắc ? c) Làm cách nào cho Giới Trẻ hiểu biết được chính sứ điệp của Người ? 2. Để việc làm này có thể tiến hành và đạt kết quả, tông huấn Dạy giáo lý đề nghị phải đồng thời thực hiện hai việc sau : a) PHÂN CHIA việc dạy giáo lý thành các giai đoạn khác nhau của cuộc đời. b) Vận dụng các phương pháp sư phạm giáo lý điển hình và các phương pháp khoa học kỹ thuật hiện đại vào việc dạy giáo lý. 3. Nói chung về cách giảng dạy Giáo lý : Tông huấn “Dạy giáo lý” chỉ thị rõ (DGL 21-22) : a) Giảng dạy không phải là tùy hứng, thiếu sửa soạn nhưng phải giảng dạy có hệ thống, theo một chương trình, nhằm mục đích rõ rệt. b) Giảng dạy về những điều cốt yếu. Không nên đề cập tới tất cả các vấn đề còn đang tranh luận, cũng không nên biến việc dạy giáo lý thành buổi khảo cứu thần học hoặc chú giải Kinh Thánh theo những đòi hỏi chuyên môn của khoa Thánh kinh học. c) Dù sao, việc dạy giáo lý cũng phải khá đầy đủ, không dừng lại ở việc “loan báo thô sơ” (Kêrygma) mầu nhiệm Ki-tô giáo. d) Phải khai tâm Ki-tô giáo toàn diện về tất cả các mầu nhiệm chính trong đạo. e) Việc làm này không chỉ dựa vào kinh nghiệm cá nhân đơn thuần, nhưng phải dựa vào kinh nghiệm truyền thống (traditio) sống động và linh hoạt của Hội thánh. V. CHƯƠNG TRÌNH GLHÂ : (xem trang 16-17) VI. GIÁO LÝ CẤP I : ĐẾN BÀN TIỆC THÁNH. Đến Bàn Tiệc Thánh là tập giáo lý đầu tiên trong 3 cấp GL căn bản dành cho các em thiếu nhi. Nội dung trình bày toàn bộ sứ điệp KTG, trích từ cuốn GLCG 1996 trong mức độ thích hợp với lứa tuổi 6-8 tuổi, có trình độ văn hóa lớp 1-2-3. ĐBTT chọn Bí tích Hòa giải và Thánh Thể làm kết điểm của chương trình cấp I và tất cả đều nhắm tới chủ đích : Thiên Chúa là Cha quyền năng yêu thương và mọi người là anh chị em để kiến tạo nền văn minh tình thương, hầu dẫn đưa tất cả vào cuộc sống hạnh phúc vĩnh hằng. Giáo Lý Hồng An lần lượt giới thiệu 4 tập ĐBTT: - 01 tập dành cho các học viên (thủ bản). - 01 tập đầy đủ chi tiết, mang tính sư phạm dành cho GLV (giáo án). - 01 hoặc nhiều tập sinh hoạt (Hát - Băng hát - Vũ - Băng reo - Truyện kể - Trò chơi...). - 01 tập tranh lớn minh họa các bài giáo lý (khi có điều kiện). Tập giáo án, mặc dù là tổng hợp những đóng góp quí báu của nhiều dòng tu, chủng sinh và GLV giáo dân trong và ngoài Giáo phận, nhưng nó vẫn còn hạn chế, mong được góp ý từ muôn phương để hoàn thiện ; và nhất là chưa thích hợp với từng nơi. Vì thế nó đòi hỏi các GLV trước khi vào lớp phải soạn lại cho thích hợp với khu vực, điều kiện và hoàn cảnh từng nơi, từng lúc. VII. DIỄN TIẾN CỦA TIẾT GIÁO LÝ ĐBTT : Giáo Lý Hồng ân cố gắng tổng hợp các phương pháp giảng dạy nhất là phương pháp Thánh kinh - Hoạt động - Qui nạp... Vì thế, giáo án của mỗi bài giáo lý thường có những phần sau : A. Phần nhắc nhở GLV : 1. Lời Chúa : Lời Chúa vừa là sức sống, vừa là phương thức truyền dạy nội dung giáo lý. Do đó, bài giáo lý chọn một câu Kinh Thánh thích hợp với nội dung giáo lý được trình bày. GLV phải là người thuộc, suy niệm và sống Lời Chúa đó trước. 2. Ý chính : Xác định nội dung chính yếu của bài giáo lý. Đến Bàn Tiệc Thánh cũng như 2 tập Lớn lên trong Chúa Thánh Thần (GL cấp II) và Sống đạo (GL cấp III) làm nên một nội dung duy nhất bổ túc cho nhau mà mỗi Ki-tô hữu phải biết. Mỗi bài là một đề tài (không phải mỗi bài là một tiết giáo lý) gồm nhiều ý chính. Các GLV cần phân định đề tài thành những tiết giáo lý tùy theo thời lượng của mỗi cấp cho phép. Để giúp các GLV giảng dạy, GLHÂ cố gắng xác định những ý chính của mỗi bài giáo lý. Trong phần diễn giải nội dung giáo lý, chúng tôi cũng trình bày theo từng ý chính này. Mỗi ý chính sẽ có lời Chúa chủ lực và được diễn tả như một tiết giáo lý. GLV có thể tự dọn những bước I, III, IV, V để làm thành một tiết giáo lý riêng. 3. Tâm tình : Nhắc cho GLV yêu cầu phải khơi gợi lên nơi tâm hồn các em trong và sau buổi giáo lý. 4. Chuẩn bị : Đề nghị một số học cụ, hình ảnh để GLV chọn trước khi vào lớp giáo lý. B. Giáo án : Dạy giáo lý phải đạt được 3 mức độ : - TRUYỀN THÔNG KIẾN THỨC TÔN GIÁO, - CẢI TẠO ĐỜI SỐNG, - DẪN ĐƯA VÀO ĐỜI SỐNG MỚI TRONG CHÚA KI-TÔ. Vì thế, cần tận dụng những phương pháp sư phạm trình bày sao cho các em dễ tiếp thu, dễ nhớ. Chương trình giáo lý Hồng Ân đã đón nhận phương pháp sư phạm văn hóa của các lớp mẫu giáo và cấp I văn hóa nhằm giúp các em : - Không xa lạ, tách biệt giữa học văn hóa và học giáo lý ; - Thực hiện được cuộc gặp gỡ với Chúa Ki-tô và đón nhận giáo lý từ chính Chúa Ki-tô ; - Cố gắng thuộc và sống nội dung Giáo lý ngay trong giờ giáo lý ( trong thực tế, các em bị chi phối nhiều bởi cuộc sống xô bồ hôm nay. Thời giờ dành cho giáo lý rất hạn chế). GLHÂ đề xuất diễn tiến tiết giáo lý theo 5 bước sau : 1. Ổn định : (GLV cần làm sinh động và mau chóng bước ổn định). a) Đón tiếp : - Các GLV vui vẻ, tươi cười đón tiếp từng phụ huynh (nếu có) và từng em vào lớp (vào địa điểm giáo lý), thăm hỏi phụ huynh các em về gia cảnh, làm quen với từng em cốt sao cho các em thấy mình được yêu thương và nhập cuộc với mọi người, mau chóng thoát khỏi tâm trạng sợ sệt, xa lạ ... - Đến giờ, GLV chủ nhiệm chào các em và tự giới thiệu mình và các bạn GLV khác, nếu có. Cũng nên giới thiệu tổng quát các em học viên (Tổng số bao nhiêu, nam, nữ bao nhiêu), tuyên dương sự vui vẻ và vỗ tay chào nhau. b) Thánh hóa : GLV chủ nhiệm hướng dẫn các em đứng nghiêm trang, khoanh tay, mắt nhìn lên Tượng Chúa (nếu có) hoặc hướng lên bàn Lời Chúa, làm dấu Thánh giá, cùng đọc kinh Lạy Cha. c) Dẫn vào bài mới : (từ bài giáo lý thứ hai) Đây chưa phải là lúc kiểm tra bài cũ để lấy điểm mà chỉ là nhắc sơ qua bài cũ để giới thiệu đề bài mới. 2. Em nghe Lời Chúa : a) Dẫn nhập : Bằng một kinh nghiệm sống, một điểm móc (point d’accrochage), GLV dẫn các em vào tâm tình và thái độ đón nghe Lời Chúa : con người lãnh hội từ những gì cụ thể chung quanh trong đời sống thường ngày, từ đó, mới có thể hiểu được những gì trừu tượng, linh thiêng, nhất là đối với tuổi thơ. Đặc tính của phần này là cái gì cụ thể, dễ hiểu, gây hào hứng thích thú đối với các em đồng nhi, thí dụ một câu chuyện, một hình ảnh, một bài hát, hay một đoạn văn ghi tiếng nói của ai đó. b) Công bố Lời Chúa : “Ở trung tâm khoa dạy giáo lý phải có Chúa Giê-su thành Na-da-réth. Người là Con Một tự Cha mà đến, tràn đầy ân sủng và chân lý. Người là đối tượng khoa dạy giáo lý”. Vì thế, Lời Chúa phải được công bố và được đón nhận trong giờ giáo lý. c) Dẫn giải nội dung giáo lý (giải thích) : Đi từ Lời Chúa vừa được công bố, GLV trình bày nội dung giáo lý bằng ngôn ngữ thích hợp với các em, bằng những câu chuyện, những hình ảnh, những câu hỏi đáp đơn sơ... GLV luôn nhớ là trình bày giáo lý của Chúa Giê-su chứ không trình bày ý kiến cá nhân mình. Đây là phần đóng góp chủ yếu của GLV vào việc truyền thông giáo lý cho các em. d) Cầu nguyện : Giờ giáo lý không phải là giờ học như các môn học khác : Toán - Văn - Sử... Nhưng là giờ các em tiếp xúc với Chúa Giê-su, GẶP GỠ, HIỆP THÔNG với CHÚA GIÊ-SU thành Na-da-rét, Đấng đã sống và dạy chân lý đó. Do đó, sau khi các em lắng nghe và hiểu Lời Chúa, các em nghiêm trang cầu nguyện. GLV đọc từng phần lời cầu nguyện ngắn, các em lặp lại hoặc GLV hướng ý cầu nguyện. Cũng có thể dần dần tập cho các em cầu nguyện tự phát. 3. Em nhớ Lời Chúa : Đây là lúc giúp các em nhớ nội dung chính yếu của bài học giáo lý : các em cố gắng thuộc ngay tại lớp giáo lý SAU KHI ĐÃ HIỂU tương đối : các em học một lời Kinh Thánh và những câu hỏi thưa (được trích từ sách GLCG do HĐGMVN phổ biến năm 1996 bắt nguồn từ cuốn Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo ban hành ngày 1.10.1992). 4. Em sống Lời Chúa : a) Sinh hoạt : Các em thiếu nhi (6-12t) là tuổi hồn nhiên thích chơi nhưng là chơi để học, chơi để sống. Vì thế, những bài hát cùng với những vũ điệu đơn sơ, những băng reo, câu hò, truyện kể, trò chơi... là phương thức thích hợp và linh động với các em. Đây là phần đề nghị, GLV có thể tùy nghi chọn hoặc thay thế bằng những bài hát khác thích hợp. Tập Sinh Hoạt “ĐẾN BÀN TIỆC THÁNH” đề nghị một số sinh hoạt cho mỗi đề tài giáo lý để GLV tùy nghi sử dụng. Các sinh hoạt cần thích hợp với ý chính của Tiết giáo lý và tâm lý các em. b) Thực hành : Để sống giáo lý, GLV cố gắng gợi ý giúp các em thực hiện một hành vi, một việc tốt thích hợp với bài giáo lý. Trong sách học viên, có ghi điều thực hành. Đây chỉ là đề nghị. GLV cần xem xét thực tế của môi trường và tâm lý để gợi lên những việc làm thiết thực. c) Bài làm ở nhà : Tùy hoàn cảnh, trình độ và điều kiện, GLV có thể đề xuất với các em một bài tập làm ở nhà, chẳng hạn tô hình ảnh của bài giáo lý hay đóng khung, tô màu điểm thực hành... 5. Kết thúc giờ giáo lý : Khi hết giờ giáo lý, GLV căn dặn các em vài điều cần thiết về việc học bài, sống bài giáo lý... Sau đó tất cả nghiêm trang đứng dậy tạ ơn Chúa với lời kinh ngắn (Sáng danh...) hay lời cầu tự phát. GLV cũng nên tập cho các em biết chào GLV và GLV cũng vui vẻ chào lại.
Last updated
Was this helpful?