Chút hồi ức VỀ NHỮNG NGƯỜI TÙ CÔN ĐẢO CÓ THỂ BẠN CŨNG BIẾT

Chút hồi ức VỀ NHỮNG NGƯỜI TÙ CÔN ĐẢO CÓ THỂ BẠN CŨNG BIẾT

Trong hồi ức này, tác giả viết đầy đủ tên của hầu hết nhân vật được đề cập đến mà không viết tắt tên theo tập quán thường thấy, để bạn đọc biết rõ hơn, và những người trong cuộc, nếu còn sống, hoặc thân nhân của họ, có thể bổ sung, cải chính, nếu cần … Cũng như bài trước đây về Côn đảo, ở bài này và những bài tiếp sau, trang LN xin không đón tiếp những ý kiến, bình luận có thể gây ngộ nhận về mục đích của người viết như so sánh các chế độ lao tù khác nhau, miệt thị các chế độ chính trị đã hoặc đang tồn tại, hay khơi gợi những bất đồng, hằn thù không đáng có trong cộng đồng dân tộc trong và ngoài nước hiện nay.

Tôi ra Côn đảo vào cuối tháng 12 năm 1970, giữa mùa gió chướng gầm rú từ đêm này qua đêm khác. Gió mạnh đến nổi tôi nghe kể, có những đêm sóng biển hất tung những viên đá nhỏ từ bãi văng lên đường nhựa, sáng sớm các tù nhân phải đi lượm quăng xuống biển để xe có thể chạy được. Kẻ xa quê, đêm nằm nghe gió chướng thổi buồn ghê lắm. Lòng còn nặng nề hơn khi biết ra rằng mình đã có một sự chọn lựa sai lầm.

Chức vụ tôi giữ là chức vụ được thiết lập lần đầu tiên, trước đó, tại Cơ sở hành chánh Côn Sơn, các trưởng phòng làm việc trực tiếp với ông chúa đảo (Đặc phái viên HC), vai trò của họ là vai trò của những người phụ tá, nay mình xuất hiện, chen vào giữa, làm mất đi sự gần gũi, gắn bó của họ từ bấy lâu nay. Với người sếp trực tiếp là ông chúa đảo, mình là hiện thân của một loại “tai mắt” được trung ương cử ra để “dòm ngó” những việc làm của ông ta. Vì thế, sự cô lập ngấm ngầm đến với tôi từ cả hai phía.

Có lần, tôi viết cho ông chúa đảo, Trung tá Nguyễn Văn Vệ, một “tờ trình” với dòng cuối cùng mà đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ nguyên văn: ”nếu Trung tá thấy sự hiện diện của tôi tại Côn Sơn là không cần thiết thì xin vui lòng giao hoàn tôi về Bộ Nội vụ để tôi được cử giữ những nhiệm vụ khác hữu ích hơn”. Sau đó, nghe ông Trưởng văn phòng Cơ sở HC kể lại, ông Vệ xem xong tờ trình, có vẻ cũng “đau đầu” lắm. Ông ấy thay đổi thái độ với tôi theo chiều hướng tốt hơn, nhưng chưa bao lâu thì ông được thuyên chuyển về đất liền, người thay thế là Trung tá Cao Minh Tiếp, một sĩ quan nguyên ở phòng nhì Bộ Tổng tham mưu, giỏi tiếng Anh, có những giao dịch tốt với các đơn vị Mỹ trú đóng trên đảo. Lúc ấy gần như ông Tiếp và tôi đều là người mới cả nên sự phối hợp trong công việc nhịp nhàng hơn.

Những ngày chưa có sự thay đổi người đứng đầu trên đảo, chiều chiều tôi ra gộp đá cạnh bãi biển ngay phía trước nhà, ngồi ray rứt với những hối tiếc về sự chọn lựa của mình. Một bài thơ thất ngôn ra đời vào lúc này. Thơ có 5 khổ, nhưng sau những dâu biển cuộc đời, tôi không còn giữ được trong tủ sách, chỉ giữ được trong đầu hơn 3 khổ.

BUỒN CÔN SƠN,

Từ ta cất bước rời đô thị,

Nhân thế còn vui giữa loạn cuồng,

Ai kẻ vùi quên bao chí cả,

Ai người cúi mặt với tang thương?

Bước chân lưu lạc phương trời lạ,

Đâu biết mùa Xuân đã đến rồi,

Ôi những mùa Xuân vàng quá khứ,

Phương này kỷ niệm cũng xa xôi.

Nửa đêm trừ tịch buồn khôn tả,

Biết gửi tình quê một hướng nào.

Tay níu trời cao tìm ảo ảnh,

Trông vời biển rộng những chiều say,

Bỗng nghe tê đắng dâng đầu lưỡi,

Nước mắt ai trong chén rượu này!

Bài thơ cũng là một nguyên nhân xa đưa tôi đến gần với hai nhóm tù đặc biệt nhất trên đảo lúc bấy giờ. Đó là nhóm tù Trần Đình Vọng, nguyên tỉnh trưởng Bình Định kiêm Thị trưởng Qui Nhơn khoảng những năm 1967-1969; và nhóm tù Huỳnh Văn Trọng – Vũ Ngọc Nhạ mà hoạt động “tình báo chiến lược” được các phương tiện truyền thông sau 30.4.1975 khai thác triệt để, với nhân vật VNN được thổi lên tận mây xanh.

Khoảng năm 1968-1969, “vụ án tham nhũng” tại Bình Định, nơi Trung tá Trần Đình Vọng là Tỉnh trưởng Bình Định kiêm Thị trưởng Qui Nhơn, làm tốn rất nhiều giấy mực của các báo. Vụ án liên quan đến việc giải tỏa và đền bù đất đai để làm phi trường Phù Cát, dính đến cơ quan thi công chính là Khu tu bổ Qui Nhơn (quân sự) và nhiều quận, xã, nơi dân chúng có đất đai bị giải tỏa và được đền bù.

Trong những ngày kết thân với tôi tại Côn đảo, ông Vọng kể cho tôi nghe nhiều “uẩn khúc” của vụ án này, song chuyện đó không thuộc về chủ đề chính hôm nay. Nhóm tù của Trung tá Trần Đình Vọng, ngoài ông, còn có Thiếu tá Võ Đình Giai, Trưởng khu tu bổ Qui Nhơn, Đại úy Nguyễn Ngọc Khôi, Quận trưởng Phù Cát, Đ/úy Trương Văn Tuyên, Quận trưởng An Nhơn, Đ/úyLộc, QT(?) và trung úy Thuần. Anh Tuyên là bạn đồng môn QGHC, khóa đàn anh của tôi, nhận mức án nhẹ nhất nên khi tôi ra Côn đảo vào tháng 12.1970, anh đã được trả tự do.

* Như đã viết ở một bài trước, nhóm tù Trần Đình Vọng được cấp riêng một ngôi nhà gạch để ở, khá thoải mái. Ngoài ông Vọng không phải làm gì, những người khác làm “công nhân văn phòng” ở các công sở. Riêng Thiếu tá Võ Đình Giai, nhờ khá tiếng Anh, được đưa xuống tàu làm thông ngôn cho toán chuyên viên Mỹ thuộc hãng thầu RMK đang thi công đài vô tuyến trên núi Chúa.

Người trong nhóm Trần Đình Vọng thường xuyên đến chơi với tôi là … ông. Ông là thông gia với ông Nguyễn L., cháu nội của một đại thần triều Nguyễn, lúc cuối đời lên đến phẩm hàm Cần chánh điện đại học sĩ. Người con trai lớn của ông Vọng, anh Trần Đình Liên, là bạn đồng môn của tôi, học sau tôi một khóa (khóa 11 QGHC), lúc ấy đang làm việc tại Biên Hòa. Mặt khác, tại Bình Định, nhiều bạn đồng môn của tôi như Trương Văn Tuyên, Phạm Hữu Độ … cũng từng là cộng sự của ông Vọng, nên mối quan hệ giữa ông và tôi sớm trở nên thân thiết.

Nghe kể rằng lúc bấy giờ, bà Vọng được Phó Đại sứ Mỹ Colby cấp cho một “giấy tùy thân” để đi nhờ máy bay Mỹ, ưu tiên đến mức nếu cần phải bỏ bớt người khi máy bay không còn chỗ thì người bị bỏ xuống là 1 lính Mỹ chứ không phải bà Vọng. Người có thẩm quyền cấp giấy phép thăm nuôi đặc biệt lúc bấy giờ là Đại tá Huỳnh Ngọc Diệp, Đổng lý Văn phòng Bộ Nội vụ, nguyên Tỉnh trưởng Vĩnh Long, bạn “đồng liêu” của ông Vọng, nên bà Vọng vẫn thường được cấp giấy phép đặc biệt ra Côn đảo thăm chồng. Mỗi lần như thế, tôi lại cho chiếc Scout của tôi chạy ra phi trường Cỏ Ống cách trung tâm đảo hơn 10 km để đưa bà Vọng về thị trấn.

Khi Trung tá Cao Minh Tiếp ra nhậm chức tại Côn đảo khoảng tháng 2.1971, số phận của ông Trần Đình Vọng thay đổi khá nhiều. Với bản tánh quí trọng những người mà ông coi như là đàn anh, bất luận có là một người tù dưới quyền quản lý của mình, vừa đặt chân đến đảo buổi sáng thì buổi chiều ông Tiếp đã cho xe đi rước tù nhân Trần Đình Vọng đến chơi với mình. Tôi khâm phục và trân trọng cách hành xử đó của ông Tiếp. Tuy nhiên, do ông Tiếp bận nhiều việc, ông Vọng đến chơi với tôi nhiều hơn, thường là vào ban đêm.

Trong những buổi nói chuyện bên tách trà, hai thế hệ chúng tôi nói với nhau nhiều chuyện, vui cũng như buồn. Ông Vọng kể cho tôi nghe nhiều tình tiết trong “vụ án tham nhũng” mà ông là bị cáo cao cấp nhất. Cần nhắc thêm là lúc bấy giờ, theo một đạo luật do Quốc Hội VNCH thông qua, người nào tham nhũng từ 500 ngàn đồng trở lên là bị án tử hình (những năm 1968-1969, một lượng vàng giá khoảng 18-19 ngàn đồng).Tôi nhớ ông Vọng kể tôi nghe hai chi tiết quan trọng trong vụ án này. Một, đây là hệ quả sự bất đồng đang ngày càng gay gắt giữa 2 “ông lớn”. Về điều này, ông Vọng có cho tôi xem một bức ảnh đã ố vàng, chụp từ nửa đầu thập niên 1950 tại một đơn vị ở quân khu 2. Trong ảnh, ông Vọng mang lon trung úy, còn hai ông Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện Khiêm mang lon đại úy.

Chi tiết thứ hai là nguyên nhân gần của vụ án: với tư cách Tỉnh trưởng Bình Định kiêm Thị trưởng Qui Nhơn, ông Vọng đã thẳng thừng từ chối lời yêu cầu của mẹ ruột một bà “mệnh phụ” muốn được mở casino tại Qui Nhơn, một thị xã có rất nhiều lính Mỹ.

Trong những ngày tháng đó, ông Vọng và tôi rất gần gũi, đồng cảm với nhau, tôi coi ông như một người cha, người chú của mình. Có những đêm mưa lất phất, trời đã khuya, tôi cầm đèn pin tiễn ông ra đến cổng nhà, rọi đường cho ông đi. Nhìn bóng người tù tử hình bước liêu xiêu trên con đường ven biển, giữa hai hàng cây bàng, tôi chùng lòng trong một nỗi thương cảm mênh mang, thương ông, và thương cho cả đời mình.

* Với ông Nguyễn Xuân Hòe, nhân vật số 3 trong vụ án “điệp báo” Huỳnh Văn Trọng - Vũ Ngọc Nhạ, mối quan hệ với tôi diễn ra trong một chiều hướng khác. Khi tôi ra đến Côn đảo thì hai ông Huỳnh Văn Trọng và Vũ Ngọc Nhạ còn thụ án ở trại Chí Hòa, ông Hòe là người có vai vế lớn nhất ở Côn đảo, tính theo bản án chung thân mà ông nhận lãnh.

Hồi đó, trong cái nhìn của các viên chức chính quyền ở đảo, nhóm tù Huỳnh Văn Trọng - Vũ Ngọc Nhạ đơn giản là những công chức VNCH có liên hệ bất hợp pháp với đối phương, bản thân ông Hòe cũng tự nhận như thế, và còn hơn thế, ông cho là nhóm ông thực hiện việc liên lạc theo mật lệnh của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

Cũng vì thế mà trước khi tôi ra, chính quyền Côn đảo cư xử với nhóm tù Huỳnh Văn Trọng - Vũ Ngọc Nhạ không khác nhóm tù Trần Đình Vọng. Họ cũng được cấp một ngôi nhà gạch chung vách với nhà của nhóm ông Vọng. Họ gồm có Nguyễn Xuân Hòe, Bửu Chương, Vũ Hữu Ruật, Vũ Văn Hiếu … Trong số này, chỉ có ông Bửu Chương có chút “dây mơ rể má” với tôi: khi tôi làm ở Nha Thanh Tra bộ Xây dựng Nông thôn năm 1966 thì ông Chương là Chánh sở tại Nha Cán bộ của bộ này. Chút quan hệ nhỏ nhoi ở chốn tha hương cũng đủ để tôi có lần cho ông Chương sử dụng một căn trong ngôi nhà ở 4 căn của tôi để gặp người vợ của ông từ đất liền ra thăm ông.

Còn về ông Hòe thì khi đọc bài thơ tôi vừa làm tặng ông Vọng, ông đã làm một bài họa lại và chút duyên bút mực đó đã nối kết giữa tôi với ông cho tới ngày tôi rời đảo. Thường là mỗi sáng chủ nhật, ông Hòe đến thăm tôi, mang cho tôi mượn các tạp chí Time, Newsweek do người nhà từ đất liền gửi ra cho ông đọc.

Với tôi, ông Hòe không có một dấu hiệu nào chứng tỏ ông là một cán bộ CS, khác hoàn toàn với một người mà tôi sẽ kể sau. Chúng tôi trao đổi với nhau nhiều vấn đề liên quan đến thời sự quốc tế như hai người bạn không khác biệt nhau về chính kiến và tôi đặc biệt khâm phục sự nhạy bén trong nhận thức chính trị của ông Hòe. Tôi còn nhớ một “tiết lộ” quan trọng của ông về hai vụ án tưởng chừng tách biệt nhau mà thật ra có liên hệ nhân quả với nhau. Chuyện này tôi có kể trong một bình luận ở đâu đó, nay nhắc lại ở đây để nhiều người đọc thêm.

Theo ông Hòe, hai vụ án cách nhau chỉ một thời gian ngắn là đòn ngầm giữa Đại sứ quán Mỹ và Phủ Tổng thống VNCH. Vụ thứ nhất liên quan đến Đại úy Trần Ngọc Hiền của MTGPMN, bị an ninh VNCH bắt khi từ chiến khu vào Sài Gòn tiếp xúc riêng với sứ quán Mỹ. Việc bắt ông Hiền được xem là phản ứng của phía VN trước người đồng minh đã tự ý quyết định một việc hệ trọng mà không tham khảo mình. Ông Trần Ngọc Hiền là anh ruột ông Trần Ngọc Châu, người từng là Trung tá Tỉnh trưởng Kiến Hòa (Bến Tre), sau làm dân biểu Quốc hội VNCH. Ông Hiền bị đưa ra tòa và thụ án tù tại Côn đảo.

Vụ thứ hai, cũng theo ông Hòe, lại là cú phản đòn của sứ quán Mỹ đối với Phủ Tổng thống VNCH. Khi Tổng thống Thiệu ra lệnh cho người phụ tá chính trị Huỳnh Văn Trọng cùng các cộng sự của ông Trọng tìm cách tiếp xúc riêng với đối phương, phía Mỹ bắt được những chứng cứ qua liên lạc vô tuyến và tung ngay ra trước công luận, ông Thiệu ở vào tình thế phải ngậm bồ hòn làm ngọt, ra lệnh truy tố người phụ tá thân cận của mình. Chuyện này không biết có ai đặt ra như một giả thuyết hay không, nay xin phép vong linh ông Nguyễn Xuân Hòe được kể lại, để may ra có thể giúp làm sáng tỏ thêm nhiều góc khuất trong đời sống chính trị của VNCH trong một thời kỳ nhiều biến động.

Người bạn thứ hai của tôi trong nhóm Huỳnh Văn Trọng - Vũ Ngọc Nhạ là ông Vũ Hữu Ruật. Ngày ấy, TyThanh niên Côn Sơn có cho tôi mượn một bàn ping pong (bóng bàn) và ông Ruật là bạn chơi gắn bó với tôi ở bộ môn này. Thời đó, công chức làm việc đến 12g rưởi trưa thứ bảy thì được nghỉ cuối tuần cho đến sáng thứ hai.

Mỗi tuần, cứ khoảng 2g chiều thứ bảy, ông Ruật lại xách vợt đến chơi với tôi. “Giơ” (jeu) ping pong của tôi với ông Ruật rất hợp nhau nên cả hai trở thành một cặp đối thủ tương đắc của nhau. Bàn ping pong ngày càng lôi kéo các tù “công nhân văn phòng” đến chơi hay dự khán đông đảo… Khoảng cuối thập niên 1990, đầu thập niên 2000, tạp chí Tài Hoa Trẻ có loạt phóng sự viết về ông Ruật, tôi dự định tìm dịp thăm hỏi ông, song chưa kịp làm gì thì đã được tin ông qua đời.

Khoảng tháng 3.1972, tức 3 tháng trước khi tôi rời Côn đảo về nhiệm sở khác trong đất liền, hai ông Huỳnh Văn Trọng và Vũ Ngọc Nhạ được đưa từ Chí Hòa ra đảo. Có lẽ do ngôi nhà được cấp riêng đã đông người hay vì một lý do nào không rõ, hai ông ở tại Trại lá, nơi dành cho những người tù làm công nhân văn phòng.

Ông Trọng lúc đó đã nhiều tuổi, song ông vẫn còn giữ được cái phong thái của một quan chức xưa, điềm đạm, ít nói. Ông Nhạ thì tôi chỉ gặp một lần, trong phút chốc. Gần ngày chính thức rời nhiệm vụ, một chiều nọ, tôi đến thăm và từ biệt 2 ông Trọng và Nhạ. Đó là lần gặp cuối cùng.

Khi hiệp định Paris 27.1.1973 vừa ký xong, trong các đợt trao đổi tù nhân, tôi đọc báo thấy ông Huỳnh Văn Trọng “xin ở lại miền Nam”. Điều đó dễ hiểu, vì ông Trọng có phải là người CS đâu. Và cũng vì thế mà sau 30.4.1975, tên tuổi ông chìm nghỉm bên cạnh người cộng sự Vũ Ngọc Nhạ được bơm thổi đến trời. Tôi không có đọc quyển Ông Cố Vấn viết về ông Nhạ, vì ngay cái tựa sách đã sai rồi, Cố vấn và Phụ tá chính trị cho ông Thiệu là ông Huỳnh Văn Trọng, chứ chẳng phải là ông Vũ Ngọc Nhạ. Song có điều chăc chắn là trong quyển này, ông Nhạ sẽ nhắc nhiều đến những người cộng sự của ông trong “cụm tình báo chiến lược” như ông Hòe, ông Ruật, ông Bửu Chương...

Riêng ông Nguyễn Xuân Hòe, “duyên nợ” với tôi còn kéo dài đến sau 1975. Đã 10 năm kể ngày chia tay, tôi gặp lại ông mấy tháng sau khi tôi từ trại cải tạo trở về (1982). Khi đó, ông đang là trợ lý giám đốc của công ty xuất nhập khẩu Ficonimex mà giám đốc là ông Đinh Xáng, từng là giáo sư trường Chính trị Kinh doanh Đà Lạt trước 1975. Nhớ lại mối quan hệ cũ ở Côn đảo, ông Hòe ngỏ ý “mời” tôi cộng tác với ông và ghi vào đơn xin việc của tôi là văn phòng ông đang thiếu người, và tôi từng “giúp đỡ” nhiều anh em tù chính trị trước 1975. Ông Đinh Xáng phê “thuận” trong đơn xin việc của tôi.

Thế là một người vừa đi tù về, chưa có quyền công dân, chưa có hộ khẩu, phải “tạm trú” ngay trong ngôi nhà của chính mình, lại nhảy phóc vào làm ở một công ty xuất nhập khẩu cấp thành phố. “Chuyện lạ” ấy khiến chính quyền địa phương, nơi có trách nhiệm “quản chế” tôi, đâm ra … ngơ ngác. Riêng tôi, lúc bấy giờ trở thành một anh nhân viên cạo giấy dưới quyền sai khiến của ông Hòe, những lúc ngồi chống cằm trong văn phòng Trợ lý Giám đốc, tôi vẫn còn hình dung rõ hình ảnh người tù Nguyễn Xuân Hòe mỗi sáng chủ nhật đến nhà tôi, khi vừa đến giữa khoảng sân rộng, đã đứng chụm hai chân lại, nghiêng người chào tôi rồi mới từ từ bước lên bậc tam cấp để vào nhà. Nếu có một chút ray rứt nào đó gợn lên từ lòng tự trọng hay tự ái thì những thứ tình cảm “tiểu tư sản” ấy phải chịu lép vế trước miếng cơm manh áo cho gia đình, giữa cuộc đua tranh khốc liệt đang diễn ra trong đời sống hàng ngày.

Lê Nguyễn

10.9.2017

[ https://www.facebook.com/lenguyenpd/posts/1406752342756071 ]

Last updated

Was this helpful?