Ngục thất thành Biên Hoà xưa
Last updated
Was this helpful?
Last updated
Was this helpful?
Nhà tù là nơi giam giữ tù nhân, theo thông lệ nhà tù là một bộ phận của hệ thống tư pháp, hình sự của nhà nước. Có lẽ hình thức giam giữ người được cho là có tội, vi phạm quy ước của cộng đồng, bộ tộc thời xã hội sơ khai là trói vào cột, hoặc nhốt vào hang đá…Có truyền thuyết kể về nền pháp luật thời vua Nghiêu, Vua Thuấn của Trung Hoa vào hơn 4.000 năm trước; khi có người phạm tội, Vua Nghiêu cho chính do ông không biết dạy dỗ dân nên dân mới sa vào vòng tội lỗi. Vua nhận trách nhiệm của mình đối với nước. Đó là cách cư xử nhân từ phúc hậu của Vua Nghiêu nên dân chúng rất cảm mến; đức độ của Vua sáng ngời tỏa rộng khắp mọi nơi, thấm nhuần khắp dân chúng, nên không cần hình phạt răn đe bỏ tù mà dân được sống an bình thạnh trị. Truyền thuyết kể rằng có người dân phạm lỗi đến trình ông, ông vẽ một vòng tròn trên đất “Họa địa vi lao- vẽ ngục trên mặt đất” bảo đứng tại chỗ, thế mà người dân đó răm rắp tuân theo không dám cãi, cứ đứng yên tại chỗ đó cho đến khi được Vua tha tội[1].
Nhà tù và trại giam là 2 từ được dùng chính thức, phổ biến trên thế giới. Ngoài ra còn có nhiều từ khác được dùng không chính thức để chỉ nhà tù như: nhà đá, nhà lao, ngục, khám, chuồng cọp… Ra đời từ rất sớm, ngay khi nhà nước sơ khai, thì các nhà tù cũng được thiết lập cùng với quân đội, cảnh sát, tòa án tạo nên hệ thống công cụ trấn áp của giai cấp cầm quyền đối với các giai cấp, tầng lớp bị trị trong xã hội. Thuở ấy, nhà tù chủ yếu được dùng để giam giữ những người chống đối lại giai cấp cầm quyền, tức là những kẻ có thể làm ảnh hưởng đến sự tồn tại của giai cấp đó. Về sau cùng với sự phát triển của xã hội, nhà tù còn được dùng để giam giữ tội phạm, tức những kẻ chống đối, gây hại cho cộng đồng xã hội[2].
Kể từ khi Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh được chúa Nguyễn Phúc Chu sai vào kinh lược xứ Đồng Nai (1698), ngay sau đó dinh Trấn Biên được thành lập là xây dựng lỵ sở tại thôn Phước Lư (giáp Nông Nai Đại phố bởi rạch Rạch Cát).
Chính quyền được thành lập, trật tự trị an được binh lính triều đình thay thế quân bản bộ của Đô Đốc Trần Thượng Xuyên, trấn giữ trước đó. Pháp luật kỷ cương được ban bố trên toàn vùng đất mới; nhằm bảo vệ cho dân chúng, khách thương yên tâm sản xuất, buôn bán. Có lẻ lúc này nhà ngục chỉ xây dựng đơn giản bằng cây, tre gai…mãi đến sau khi dời về ấp Tân Lân (1815) lúc này Dinh Trấn Biên được đổi thành Trấn Biên Hòa (1808). Nhà ngục được nâng cấp, xây dựng trong Thành Biên Hòa. Năm Minh Mạng thứ 6 (1825), triều đình định cho các tỉnh đều được dựng một nhà khám, một nhà ngục ở cửa Bắc trong thành tỉnh, mỗi nhà 3 gian 2 chái, lòng nhà dọc ngang đều 7 thước 2 tấc. Cột chính cao 10 thước 8 tấc, 4 tường bao quanh cao 5 thước, sau có lệnh xây cao thêm 1,2 thước, phía trước mở một cửa. Ở mỗi tỉnh, mỗi thời kỳ , tùy theo số lượng tù nhân hiện giam nhiều hay ít, mà cho xây 1 sở hay 2, 3 sở, không ấn định.
Thời kỳ này triều đình áp dụng Hoàng Việt Luật Lệ ban hành thời vua Gia Long. Nhà Vua dùng tư tưởng Nho giáo trong quản lý và xây dựng đất nước. Cai trị đất nước chủ yếu dựa vào Đức trị và Nhân trị (quan điểm trị nước của Nho giáo). Tuy nhiên, để bảo vệ vương quyền và xây dựng một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền chuyên chế cao độ, buộc nhà Nguyễn phải sử dụng đến yếu tố pháp trị. Đó là sự kết hợp giữa độc tôn Nho giáo và pháp trị, nhà Nguyễn đã xây dựng và thực thi pháp luật trên nền tảng của Nho giáo. Nho giáo đã cùng với pháp luật ổn định trật tự kỷ cương xã hội, đảm bảo cho sự phát triển của đất nước.
Hoàng Việt Luật Lệ được coi là bộ luật lớn nhất, hoàn chỉnh và đầy đủ dưới chế độ phong kiến. Bên cạnh những điều luật hà khắc, áp chế đối với nhân dân, còn có rất nhiều những điều luật có giá trị, mang tính nhân văn trong việc thể hiện mối quan hệ giữa các giai cấp trong xã hội[3].
Ngục giam của các nơi đều làm ra hai ngăn, trong và ngoài. Những kẻ tội nặng như: tội chém, tội thắt cổ đều giam ở ngăn trong; từ tội quân lưu trở xuống đều giam ở ngăn ngoài. Tù phạm phụ nữ thì giam ngục riêng.
Có thể nói Hoàng Việt Luật Lệ là bộ luật tiến bộ nhất so với các bộ luật của các triều đại phong kiến trước. Thời này, luật pháp đã thiết lập, quản lý chặt chẽ từ trung ương đến các địa phương, từ giai cấp quan lại, tôn thất, quân binh, đến dân đinh, lão hạng, đàn bả, con trẻ…đều bị xử lý nếu vi phạm pháp luật. Ngục thất là nơi chứa tù tạm giam chưa có án, tù đang thụ án; tù bị lưu đày từ nơi khác đến, tù án tử chờ lệ mùa thu hàng năm để thi hành án hoặc được xem xét lại trước khi thi hành án…
Vua Gia Long từng ra chỉ dụ cho quan đứng đầu địa phương :
“Quan trấn hàng ngày phải thường xuyên thăm nom các tù phạm trong nhà giam; nếu có kẻ nào ốm đau đói rét, phải để tâm chăm nuôi chu tất“[4]
Gia Long năm 1816, chuẩn theo đình nghị tấu lên như sau :
“ Về việc gạo lương của các tù giam, nếu tù tội đồ, mỗi người mỗi tháng phát 11 thăng gạo lương; tù tội lưu thì mỗi người 10 thăng gạo lương.
Các tù bị đi đày nhưng chưa đưa đi khổ sai, kẻ nào chưa đi làm nô mà còn giam ở ngục; cùng tù phạm giam đợi sau xét xử, các tù tạm giam, các tù nặng khác tuy chưa xử án mà lại không có ai cấp dưỡng, thì không kể trai gái từ 18 tuổi trở lên, mỗi người được cấp mỗi tháng 7 thăng gạo, từ 10 tuổi trở xuống thì cấp 5 thăng mỗi tháng[5]…”
Tù phạm đa số là những kẻ bất hảo, bất tuân pháp luật của xã hội bên ngoài; nên để đề phòng và răn đe, ngăn ngừa phạm tội trong ngục thất, triều đình đã ban nhiều điều lệ:
“Những kẻ can phạm phải tội xử trảm, giảo, nếu có kẻ nào bị giam lâu ngày, tự xưng là kẻ đầu sỏ trong nhà lao, quen thuộc với lính ngục, bắt nạt các tù phạm cùng giam, hống hách lừa dối lấy tài vật, xúc bảo cung xưng vu hãm cho người khác, đè nén tàn ngược, hung ác, nếu xét rõ ra sự thực, thì chiểu theo lệ “kẻ tù phạm về tội xử tử, ở trong nhà giam mà lại hành hung đến nỗi chết người”, thì đem hành hình ngay. Còn những kẻ là can phạm lỗi tầm thường, làm “đầu sỏ” thì châm chước mà trừng trị nghiêm ngặt để răn đe[6]”.
Luật còn liệt kê nhiều tội nếu vi phạm sẽ bị trừng phạt nặng như: vượt ngục, giúp tù phạm vượt ngục. Đánh bạc, uống rượu trong ngục, mang theo đồ kim khí sắc nhọn…luôn bị theo dõi lục soát, ngăn chặn và phạt nặng theo luật đã ban hành.
Nhóm tù nổi tiếng nhất và xưa nhất ở vùng đất nam bộ, có lẽ là nhóm tù phạm nổi loạn ở Nông Nại Đại Phố (Trấn Biên) năm 1747.
Ngày ấy, khi nhóm quân bản bộ của Đô Đốc Trần Thượng Xuyên tiến vào đất Đồng Nai (1679), đóng quân tại Bàn Lân (chợ Biên Hòa). Đô Đốc Trần Thượng Xuyên đã cho khai thác cù lao Phố trên quy mô lớn; mở mang đất đai, lập thành phố chợ, xây dựng đường sá, cầu đò, bến cảng, kho bãi, tửu điếm, khách sạn…Kêu gọi thương nhân Trung Hoa, người Tây, người Nhật, người Bồ Đà (Chà Và)…các nơi đến mua bán giao thương. Chẳng bao lâu, dưới sự quản lý, tổ chức linh hoạt; Đô Đốc Trần Thượng Xuyên đã biến vùng đất hoang sơ trở thành thương cảng, trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế của cả vùng Đồng Nai, Gia Định.
Năm 1747, một nhóm khách thương người Phúc Kiến qua lại buôn bán vùng này, nhân thấy Cù lao Phố giàu có nên dậy lòng tham, muốn chiếm lấy để làm chỗ dung thân lâu dài. Cuộc bạo loạn do Lý Văn Quang cầm đầu; họ Lý tự xưng là Đông Phố đại vương, bè đảng hơn 300 người, âm mưu đánh úp dinh Trấn Biên (lúc bấy giờ đóng ở thôn Phước Lư, giáp Nông Nại Đại Phố bằng con rạch Sa Hà- thành phố Biên Hòa ngày nay).
Nhân ngày tết Nguyên Đán, lập mưu đánh chiếm dinh Trấn Biên, chém chết quan trấn thủ là Cẩn Thận Hầu Nguyễn Cư Cẩn (ông là anh ruột của Tân Minh Hầu Nguyễn Cư Trinh, vị quan góp phần to lớn trong công cuộc nam tiến của Đại Việt).
Sau đó nhóm bạo loạn bị quan binh ở đạo Mô Xoài tiếp ứng với quan binh dinh Trấn Biên dẹp tan. Quan quân bắt được bọn Lý Văn Quang cùng bọn đầu sỏ hung ác 57 tên. Nhưng vì chúng là người của Thanh Triều nên không giết vội, đem giam vào ngục rồi tâu báo về triều đình.
Bọn tù nhân ngoại quốc đặc biệt ấy bị giam trong ngục thất của dinh Trấn Biên ròng rã gần 10 năm trời. Mùa thu năm 1756 tiện thể có nhóm bộ hạ của Tổng đốc tỉnh Mân Chiếc (Trung quốc) là Thiên tổng Lê Huy Đức đi tuần thú đảo Đài Loan, thuyền bị gió bão dạt đến nước ta. Triều đình nhờ thuyền buôn để đưa họ về nước; Quan trấn soạn công văn và bản án kể rõ tội trạng của đảng cướp người Phúc Kiến ấy. Bọn tù phạm ngày ấy một số thọ thương bị bệnh chết, còn lại Lý Văn Quang, Hà Tuy, Tạ Tứ và 13 người, triều đình giao hết cho đoàn của Lê Huy Đức lãnh giải về Mân Chiếc, trình lên quan Tổng Đốc ở đấy xét xử trị tội[7].
Sau đó, qua hơn 20 năm chiến tranh loạn lạc giữa lực lượng Tây Sơn và tập đoàn Nguyễn Ánh, các cơ quan lỵ sở của dinh Trấn Biên bị tàn phá nặng nề. 1802 Gia Long lên ngôi tại Huế, cơ quan lỵ sở tại các địa phương được khôi phục xây dựng lại để phục vụ cho chính quyền mới.
Năm 1816 lúc này dinh Trấn Biên được đổi thành trấn Biên Hòa, với lý do vùng thôn Phước Lư địa hình thấp, mùa nước lớn hay gây cảnh ngập lụt, lị sở của trấn được dời về thôn Tân Lân (khu vực xung quanh di tích Thành cổ Biên Hòa hiện nay). Lúc bấy giờ do đánh giá vị thế Biên Hòa không còn là nơi địa đầu quan yếu, nên hệ thống lũy bao của tỉnh thành Biên Hòa, cũng chỉ được xây dựng bằng vật liệu nhẹ, đơn giản: cây gỗ, tre, nứa; hoặc đất thì đắp vào khung gỗ, tre…Công đường, vọng cung, lầu chuông, sảnh đường, kho, bếp, khám, ngục… đều được xây dựng trong khu vực nội Thành theo quy định của triều đình Huế.
Năm 1833 Lê Văn Khôi và thuộc hạ phá ngục Gia Định, giết quan bố chánh Bạch Xuân Nguyên, mở cửa tù, thả hết phạm nhân và phát khí giới cho họ; chiếm thành Phiên An (Thành Quy). Ông tự xưng là Đại nguyên soái, phong quan tước cho thuộc hạ, rồi cùng lập một triều đình riêng; sau đó sai quân đánh chiếm các tỉnh thành nam kỳ. Biên Hòa bị đánh chiếm 2 lần, thành lũy bị tàn phá[8].
Năm 1834, trong khi binh triều đình còn vây đánh thành Gia Định, vua Minh Mạng sai quan Khâm mạng Tham Tri Đốc biện Bộ công là Đoàn Văn Phú đi kinh lý nam kỳ, xem xét trù tính tâu lên để thi hành ngay việc đắp thành đất tỉnh Biên Hòa. Tháng giêng năm Mậu Tuất (1838), vua Minh Mạng sai phái 4.000 binh dân xây đắp lại Thành theo thiết kể kiểu Vauban, bằng đất và đá ong. Lúc này, ngục thất Biên Hòa được cho xây theo điển lệ của triều đình bên trong hướng tây bắc Thành, cạnh bên hào lũy.
Hai mươi năm sau, ngục thất Biên Hòa lại một lần nữa giam cầm một số lượng tù nhân lớn, và một câu chuyện lịch sử thương tâm ít được biết đến!
Giáo hội Công giáo có mặt tại Việt Nam từ thế kỷ 16, khi các nhà truyền giáo người Châu Âu tới giảng đạo tại Đàng ngoài. Trải qua nhiều thăng trầm và biến đổi lịch sử, đến thời kỳ tranh chấp giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh; đàng trong xuất hiện giám mục Pigneau de Béhaine, quen gọi là Bá Đa Lộc. Ông đã hết lòng giúp đỡ Nguyễn Ánh khi Vương đang bị khốn đốn bởi những cuộc săn lùng, vây hãm khắp nam kỳ của quân Tây Sơn. Qua viện trợ, xin cầu viện từ vua Pháp, kêu gọi tài trợ, thành lập nhóm sĩ quan Pháp phiêu lưu đến giúp Nguyện Ánh về mặt kỷ thuật quân sự; và qua chính mình làm quốc sư, giám mục Bá Đa Lộc kỳ vọng có thể tạo Nguyễn Ánh thành một ông vua Công Giáo như vua Charlemagne, người đã đưa cả nước Pháp theo công giáo.
Nhưng trái với tham vọng ấy của Bá Đa Lộc; khi vị thế đã vững chắc, thanh thế thực lực quân sự, kinh tế đã vững mạnh, Nguyễn Vương dần dần lạnh nhạt với công giáo “ tôn giáo của nước khác…Vương không nhận một tôn giáo nào ngoài đạo thờ ông bà, tổ tiên[9].
Suốt triều đại 18 năm, Gia Long tuy xuống dụ bài bác công giáo, nhưng vua vẫn làm ngơ, vẫn để cho các vị thừa sai tự do đi lại, tự do truyền giáo và sống đạo. Đến các triều kế tiếp Minh Mạng, Thiệu Trị, thì hàng loạt sắc dụ cấm đạo công giáo được ban hành. Nhiều giám mục, giáo dân bị bắt, xử trảm, tù đày. Năm 1847 Tự Đức lên ngôi vua và ra nhiều chỉ dụ cấm đạo, cũng vì sự cấm đạo tàn nhẫn này, là một trong những nguyên do dẫn tới thực dân Pháp có cớ xâm chiếm Việt Nam. Một trong những tuyên cáo của Tự Đức có ghi:
Đạo Chúa hiển nhiên là trái với tự nhiên, bởi nó không tôn trọng các tổ tiên đã khuất. Các thầy giảng đạo gốc Âu Châu, là các kẻ đáng tội nhất, sẽ bị ném ra biển, với đá cột quanh cổ, và một phần thưởng ba mươi nén bạc sẽ được trao cho bất cứ ai bắt được một người trong họ. Các thầy giảng gốc Việt Nam ít tội hơn, và trước tiên sẽ bị tra tấn để xem họ có sẽ từ bỏ những sai lầm của mình hay không. Nếu từ chối, họ sẽ in dấu trên mặt và đày đi đến những vùng rừng thiêng nước độc. Còn những ngu-dân thì các quan phải ngăn-cấm, đừng để cho đi theo đạo mà bỏ sự thờ-cúng cha ông, chứ đừng có giết hại[10].”
Vài năm sau đó, năm 1851, sự khoan dung này dành cho các linh mục bản xứ đột nhiên bị bãi bỏ; các chỉ dụ cấm đạo càng khắt khe hơn trước. Khi quân Pháp mở cuộc xâm lược nước ta vào tháng 8 năm 1958, tấn công cảng Đà Nẵng; sau đó quay xuống nam kỳ. Ngày 18 tháng 2 năm 1859 quân xâm lược chiếm được thành Gia Định (Thành Phụng).
Triều đình cho là các giám mục Tây Phương xúi giục dân công giáo, chỉ điểm và làm tay sai cho quân Pháp, cho nên ra nhiều chỉ dụ, lục soát, điều tra, truy lùng giáo dân khắp nam kỳ. Tại tỉnh Biên Hòa lúc bấy giờ có 2 nhà ngục chính là ở Thành Biên Hòa và Bà Rịa, giáo dân từ các vùng lân cận đưa đến giam cầm, bị khắc chữ lên má, một bên ghi chữ Biên Hòa, bên kia chữ Tả Đạo.
“… Các tín hữu Tân Triều, Mỹ Hội, Lái Thiêu, Thủ Dầu Một và các họ đạo lân cận kể đến 600 người bị bắt giam vào ngục thất Biên Hòa, số người bị hành quyết tại Dốc Sỏi (đường Nguyễn Ái Quốc hiện nay, đoạn từ cổng II phi trường đến sở Công An thành phố) lên tới khoảng 120 vị. Ngày 17/12/1861, trên 407 giáo hữu còn bị nhốt trong nhà lao Biên Hòa. Khi Pháp sắp hạ thành, nhà lao bị phóng hỏa thiêu rụi, chỉ có 7 người thoát thân, còn 400 người chịu tử đạo[11]”
Bấy giờ số lượng giáo dân bị bắt nhốt vào ngục thất quá đông, tháng 9 năm 1861 quan Tỉnh ra lệnh xây dựng thêm ngục mới. Các nhà ngục mới không có phên che mưa nắng, tù nhân phải nằm trên đất, chết bệnh khá nhiều.
Tại xứ Búng (Thủ Dầu Một) có gia đình bà Hảo người công giáo:
“… Bà gả con gái của bà là cô Tám, cho một thanh niên ở Thị Nghè. Ngày vu quy, cùng đưa cô Tám đến nhà chàng rể, có bà Hảo, cô gái út là thị Chín, và anh Chất, con trai của bà. Khi đến Vàm Thuật họ bị phát hiện là người công giáo, bị bắt và đày đi Biên Hòa, nơi giam những người theo đạo Kitô. Người ta yêu cầu họ bỏ đạo, nhưng họ không đồng ý. Anh Chất bị kết án lưu đày và chết ở đó. Hai cô gái, cô Tám và cô Chín bị đánh bằng roi và nhất là không có gì để ăn. Khi chết xong, xác hai cô được một trong các anh em trai đến nhận và mang về chôn cất tại họ đạo Ghe Tám. Còn bà Hảo mẹ của các cô và anh Chất thì vẫn bị giam chung với những người công giáo khác cho đến khi trại giam bị đốt cháy…[12]”
Lính canh giữ ngục rất chặc chẽ và hà khắc. Lúc đầu tù nhân còn có tiền bạc, đút lót cai ngục và lính canh nên được dể dãi; thân nhân của họ giả dạng người Lương giáo đến thăm tiếp tế lương thực thì phải chia đôi cho cai ngục và lính. Tù nhân đi đại, tiểu tiện ở ngay trong ngục.
Lúc Thành Biên Hòa chưa thất thủ, tuần phủ Nguyễn Đức Hoan dâng sớ xin chém 3 giáo dân với tội làm trinh thám và giao thông với Tây
“Chúng mang tiền gạo đến thuyền của Tây dương đem biếu[13]”.
Chung quanh thành Biên Hòa, các con đường vào thành đều cho đặt thánh giá (theo lệnh triều đình) để giáo dân không thể bước qua mà làm gián điệp và liên lạc với quân Pháp; chỉ dụ của vua Tự Đức:
“Nếu người tây Dương đến nơi thì đem bọn dân đạo ấy giết cho hết[14]”
Ngày 14 tháng 12 năm 1861, tướng Bonard vừa gửi tối hậu thơ cho tướng Nguyễn Bá Nghi và tuần phủ Nguyễn Đức Hoan, vừa ban lệnh khởi binh. ngày 17 tháng 12 năm 1861, trước hỏa lực vượt trội hơn của liên quân Pháp- Tây Ban Nha, Thành Biên Hòa lại thất thủ sau gần một ngày bị công phá!
“…Sáng sớm ngày 17-12-186, sau khi phá các chướng ngại vật trên sông Đồng nai, dễ dàng chiếm lấy hai đồn Gò Công và Mỹ Hòa, liên quân Pháp dồn 4 cánh quân tiến đánh
thành Biên Hòa… …Hai chiếc tàu có chịu bắn ba hiệp súng lớn mà không bị thiệt hại chút chi; song khi chiếc canonnière đối xạ phát thứ ba, thì bên an- nam ngưng bắn, rồi thấy một vầng lửa lớn cháy đỏ hực lên trên thành. Khi đó trời đã gần tối, nên trễ lắm độ binh lên bờ không kịp. Ngày thứ đạo binh mới nhập thành đã bỏ không…” Người ta thấy tại đó có một chuyện gớm ghiếc không kém chi mấy chuyện trong những ngày hung ác đời thống trị Romain. Là ông tuần phủ Hoan với quan án sát Cần cung phụng lịnh triều Huế mà thi hành chẳng nhơn tay, đốt sống ba trăm người có đạo nhốt trong tù. Mấy ngọn lửa cháy hực hực lên trời lúc chiều xế đó, thời bây giờ mới biết nghĩa là gì. Mấy kẻ mắc nạn nào mà muốn kiếm đường thoát thân, đều phải người ta lấy giáo mà đâm đùa vô trong đống hỏa hào. Trong số những kẻ lâm tai, có năm người trốn khỏi hay là còn sống đặng mà thôi !..[15].”
Theo tuần báo Le Monde Illustré của Pháp, số 254 năm thứ 6, ra ngày 22/02/1862, chỉ hơn 2 tháng sau ngày Thành Biên Hòa thất thủ. Trận chiến được ông M.Lugeol, trợ lý trận địa của hạm trưởng Daries ghi lại kèm phác họa gởi đăng[16]:
“Trên boong pháo hạm L’Alarme ngày 17/12/1861:
Thưa ông giám đốc (chủ nhiệm) báo, tôi vừa có được thời gian vẽ ra cho ông hai bức tranh phác họa cuộc hành quân quan trọng, mà lực lượng đánh chiếm của chúng ta vừa hoàn thành quyết liệt đối với Biên Hòa.
Thành trì này, như ông đã biết, cùng với Mỹ Tho và Sài Gòn, hình thành 3 điểm chiến lược của Nam kỳ, và việc chiếm cứ được nó, đảm bảo cho sự chiếm cứ quyết định của chúng ta tại xứ sở giàu có này.
Đã từ lâu rồi, người An nam, đang chiếm giữ Biên Hòa, đã tung vào các tiền đồn và các nơi chiếm hữu của ta nhiều nhóm đông đảo để quấy phá các cư dân đã bị Pháp chinh phục bằng các cuộc tấn công liên tục.
Thiếu tướng hải quân Bonard, tổng tư lệnh, quyết định đánh đuổi chúng ra khỏi các nơi đồn trú, nương tựa vào thành Biên Hòa làm chổ ẩn núp của chúng.
Cuộc đánh chiếm khởi sự ngày 10/12/1861 với quân số 3.000 người. Cùng lúc đó, một đơn vị pháo hạm tiến vào các con kinh bao quanh địa điểm và chạy ngang dọc khắp thành.
Sau những lần thăm dò để tìm hiểu địa bàn và gây nhiều sự thiệt hại cho kẻ địch đang chờ chúng ta với quân số rất lớn trong các ổ phục kích, cuộc tấn công được quyết định và được tiến hành vào sáng sớm ngày 15.
Các pháo hạm tấn công dữ dội sáu đồn lũy được chống đỡ bằng những chiến lũy bằng cây và bằng đá. Người An nam cầm cự dũng cảm hỏa lực trong 4 giờ và chỉ quyết định rút khỏi đồn khi cảm thấy hiệu quả của việc xoay chuyển tình thế của các hàng quân.
Chúng ta tổn hại một chết, bốn bị thương trên pháo hạm L’Alarme, còn thủy thủ đoàn của hai pháo hạm khác không bị hề hấn gì cả chỉ có điều là tất cả các tàu đều nhận không ít các viên đạn đại bác ở thành tàu.
Chiếc pháo hạm L’Alarme bị thủng 40 chỗ vì đạn pháo, La Fusée bị 7 chỗ và L’Avalanche bị 5 chỗ. Dưới sự chỉ huy của thiếu tướng hải quân, các đội quân đã chiếm lĩnh đồn trại Mỹ Hòa. Đơn vị Tây Ban Nha và một đơn vị Pháp bao vây một số lớn quân An nam, và họ hầu như bị giết chết cả.
Các vùng xung quanh thành đã được giải tỏa, và người ta chuẩn bị một cuộc tấn công với tất cả sức mạnh còn lại. Hải quân thiếu tướng muốn biết và Ngài tiến đến cái nơi mà đã bắn khoảng 30 phát đại bác vào chiếc tàu có vị chỉ huy hạm đội ở trên đó.
Chiếc pháo hạm nhỏ khai hỏa và tức khắc một trận hỏa hoạn dữ dội bộc phát. Các quan lại An nam chạy trốn bỏ mặc 264 con chiên Thiên chúa giáo trong biển lửa. Chúng tôi phần nào vui mừng khi cứu được 200 trong số khốn khổ đó, nhưng cũng lấy làm tiếc về cái chết của 75 phụ nữ hoặc trẻ em bị thiêu cháy thành tro trong ngọn lửa.
Toà thành bị chiếm lĩnh được xây cất rất tốt và vững chắc như tất cả các công trình phòng ngự khác, chúng được che giấu dưới tàn các cội cây.
Cuộc đánh chiếm tiếp nối các bước thắng lợi và các thành công mới đảm bảo cho chúng ta chiếm lấy 6 tỉnh của Nam kỳ”...
Ngục thất Biên Hòa lúc đó nhốt 407 giáo dân, kể cả trẻ em.. Chiều tối 16/12/1861 trước hỏa lực tấn công quá mạnh mẽ của liên quân Pháp- Tây Ban Nha, quan tuần phủ thành Biên Hòa rút chạy về Bà Rịa, cửa ngục đóng kín, ngọn lửa hung hãn bao trùm… chỉ có 5 người chạy thoát, một thiếu nữ trèo lây cây cao bị lửa đốt cháy hai bắp đùi, cô được đem về Sài Gòn cấp cứu, hai ngày sau thì chết. Quân Pháp chiếm Thành, ngục thất chỉ còn đống tro tàn, ngỗn ngang xác chết cháy. Sau đó họ được chôn ngay tại chỗ, nơi bị chết thiêu. Ngày 07/08/1875 cha xứ Biên Hòa là Lovet cho dựng ở đây một bia đá có khắc hình thánh giá [17].. Từ đó giáo dân Biên Hòa lấy nơi đây làm Đất Thánh (nghĩa trang công giáo), sau đó thì quân Pháp cho chôn những binh lính và người chết của họ vào cận bên nên được gọi là Đất Thánh Tây. (nghĩa trang này đã giải tỏa, nay thuộc hẻm 59 đường Phan Đình Phùng, khu phố I, phường Quang Vinh thành phố Biên Hòa)
Ngục thất Thành Biên Hòa được xây dựng năm 1838, sau cuộc khởi loạn của Lê Văn Khôi; để phục vụ cho hình luật của chính quyền triều Nguyễn; và 23 năm sau, đêm 16/12/1861 nó bị thiêu rụi, để lại một trang sử buồn cho đất Biên Hòa./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
(1) Gia Định thành thông chí- Trịnh Hoài Đức- Hậu Học Song Hào Lý Việt Dũng dịch và chú thích- NXB Đồng Nai 2006.
(2) Đại Nam Thực Lục- Quốc sử quán
(3) Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn Biên Hòa- Nguyễn Đình Đầu.
(4) Đại nam Quốc Lược Sử- Alfred Schreinr, Sài Gòn 1906
(5) Khâm định đại nam hội điển sự lệ-Nội các triều Nguyễn.
(6) Đại Nam nhất thống chí– Nội các triều Nguyễn.
(7) Biên Hòa sử lược toàn biên- Lương Văn Lựu.
(8) Minh Mệnh Chính Yếu- Quốc Sử Quán Triều Nguyễn.
(9) gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k62202176.item
(10) Người Pháp và người Annam, bạn hay thù- Philipe Devillers- Nhà xuất bản tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
(11) Hồ sơ khoa học di tích lịch sử- kiến trúc nghệ thuật thành phố Biên Hòa- Ban di tích thành phố Biên Hòa.
(12) Lịch sử cuộc viễn chinh nam kỳ năm 1861-Le1opold Pallu, Hoàng Phong dịch và bình- Nhà xuất bản Phương Đông 2008
(13) Tuần báo Le Monde Illustré của Pháp, số 254 năm thứ 6, ra ngày 22/02/1862
(14) http://antruong.free.fr/damdaiganhdao34.html
(15) https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0_t%C3%B9
(16) Theo ThS. Đỗ Việt Hà-Trường CĐ Kinh tế công nghiệp Hà Nội.
(17) Việt Nam Công Giáo sử tân biên (1553- 2000)- Cao Thế Dung. Cơ sở Dân Chúa xuất bản- 2005.
(18) Khâm định tiểu bình nam kỳ nghịch phỉ phương lược chính biên- Quốc sử quán triều Nguyễn.
(19) Một số tài liệu trên internet và tư liệu điền dã
Chú thích
[1] Thử tìm hiểu thế nào là đời Nghiêu, Thuấn. Trích:http://antruong.free.fr/damdaiganhdao34.html
[2] Nhà tù – Wikipedia tiếng Việt. Trích: https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0_t%C3%B9
[3] Pháp luật Triều Nguyễn và một số giá trị cơ bản của nó– ThS. Đỗ Việt Hà-Trường CĐ Kinh tế công nghiệp Hà Nội.
[4] 5 6 Khâm định Đại nam hội điển sự lệ- Nội các triều Nguyễn- Nhà xuấ bản Thuận Hóa, 2005- quyển 202, Luật hình.
[7] Gia Định thành thông chí- Trịnh Hoài Đức- Hậu Học Song Hào Lý Việt Dũng dịch và chú thích- NXB Đồng Nai 2006. Dinh Trấn Biên.
[8] Khâm định tiểu bình nam kỳ nghịch phỉ phương lược chính biên- Quốc sử quán triều Nguyễn.Nhà xuất bản Giáo Dực Việt Nam- 2012.
[9] Việt Nam Công Giáo sử tân biên (1553- 2000)- Cao Thế Dung. Cơ sở Dân Chúa xuất bản- 2005.
[10] Đại nam thực lục chính biên. Đệ tứ kỷ, quyển II- Quốc sử quán triều Nguyễn. Nhà xuất bản Giáo Dục. 2007. tr.83.
[11] Kỷ yếu 150 năm Giáo xứ Biên Hòa (1863- 2013),tr.26.
[12] Lược sử giáo xứ Búng- http://www.giaoxugiaohovietnam.com/PhuCuong/01-Giao-Phan-PhuCuong-Bung.htm.
[13] Đại nam thực lục chính biên. Đệ tứ kỷ, quyển XXIV- Quốc sử quán triều Nguyễn. Nhà xuất bản Giáo Dục. 2007. tr.726.
[14] Đại nam thực lục chính biên. Đệ tứ kỷ, quyển XXIV- Quốc sử quán triều Nguyễn. Nhà xuất bản Giáo Dục. 2007. tr.725.
[15] Đại nam Quốc Lược Sử- Alfred Schreinr, Sài Gòn 1906.tr.384-385.
[16] Trích Tuần báo Pháp Le Monde Illustré năm thứ 6 số 254 ra ngày 22/02/1862 – phiên dịch: Hậu Học Song Hào Lý Việt Dũng ).
[17] Kỷ yếu 150 năm Giáo xứ Biên Hòa (1863- 2013),tr.26
[ https://nghiencuulichsu.com/2019/10/15/nguc-that-thanh-bien-hoa-xua/ ]