Ngôi chùa mang tên Chùa Cô hồn
Last updated
Was this helpful?
Last updated
Was this helpful?
Ngôi chùa mang tên Chùa Cô hồn
Dân Biên Hòa hầu hết đều biết hoặc nghe tên chùa Cô hồn, cái tên nghe là lạ. Thật ra chùa có tên là Bửu Hưng, nằm ở đầu đường Phan Đình Phùng. Nguồn gốc tên chùa Cô hồn là một câu chuyện lịch sử bi tráng.
Đầu thế kỷ 20, một Hội kín yêu nước được lập nên ở Biên Hòa, mang tên trại Lâm Trung. Trại chiêu tập người, tổ chức luyện tập võ nghệ, trang bị vũ khí, tích trữ lương thực…chờ thời cơ đánh Pháp. Người dân xem những trại viên Lâm Trung trại như những vị hảo hán Lương Sơn Bạt. Căn cứ trại đóng tại núi Gò Mọi, vùng Thiện Tân, Vĩnh Cửu.
Cuối tháng 1/1916, nghĩa quân trại Lâm Trung chia làm nhiều toán tấn công vào các nhà hội ở Tân Trạch, Tân Khánh, Tân Lương… và khám đường Biên Hoà, chợ Tân Uyên (lúc bấy giờ thuộc tỉnh Biên Hoà). Cuộc tấn công làm cho quân Pháp và chính quyền tay sai ở Biên Hoà bất ngờ. Thế nhưng, sau đó, quân Pháp tập trung lực lượng đàn áp, lùng bắt các trại viên. Tháng 3/1916, giặc Pháp bắt được các trại viên chủ chốt trại Lâm Trung.
Tháng 6/1916, thực dân Pháp lập toà án xử các trại viên Lâm Trung và tuyên án tử hình 9 người tại Dốc Sỏi (xóm Bình Thành, nay là đầu đường Hưng Đạo Vương). Trước khi bị xử bắn, một số trại viên đã tỏ rõ khí tiết hiên ngang, dõng dạc tuyên bố trước họng súng quân thù “Ta sinh làm tướng, chết làm thần, chúc bà con ở lại mạnh giỏi”, “Cứ bắn ta đi, ta xem cái chết như quy thị tân gia”.
Thi thể của các trại viên bị xử tử được chôn chung trong một nấm mộ (hiện nay vẫn chưa xác định được vị trí). Người dân tiếc thương và ngưỡng mộ tinh thần bất khuất của các nghĩa sĩ nên lập một miếu thờ tại nơi các vị đã hy sinh vào năm 1918. Để tránh sự dòm ngó của chính quyền Pháp, họ gọi đây là Miếu Cô hồn.
Năm 1920, ngôi miếu được chuyển về khu đồi cao, tức là vị trí hiện tại ở đường Phan Đình Phùng, đồng thời xây cất lại thành một ngôi chùa mang tên Bửu Hưng tự. Thuở ấy, đây chỉ là một ngôi chùa đơn sơ. Vị sư đầu tiên được thỉnh về trụ trì một thời gian thì viên tịch, nay không rõ pháp danh. Từ đó chùa không có trụ trì mãi cho đến 1958. Chùa được trùng tu vào những năm 1960, 1963, trùng tu với quy mô lớn năm 1967. 1999. Tuy vậy đến nay đây cũng chỉ là một ngôi chùa nhỏ và khá đơn sơ. Chánh điện chùa có diện tích 54 m2 (7,7 x 7 m).
Chùa Bửu Hưng được công nhận là Di tích Lịch sử Cách mạng cấp tỉnh, nhưng lý do chính không phải là vì gắn liền với sự kiện lịch sử của 9 vị nghĩa sĩ Lâm Trung trại như kể ở trên, mà vì lý do sau:
Vào tháng 6 năm 1945, dưới sự chủ trì của đồng chí Hoàng Minh Châu, hội nghị cán bộ đảng ở Biên Hòa đã được triệu tập ở gian phía sau chùa. Hội nghị đã quyết định những vấn đề quan trọng về chủ trương, chuẩn bị cho nhân dân Biên Hòa nổi dậy giành chánh quyền trong cách mạng tháng Tám; thành lập ủy ban khởi nghĩa; lấy tổ chức Thanh niên Tiền phong để tập họp đồng đảo các tầng lớp công nhân, nông dân, trí thức, người lao động sẵn sàng nổi dậy khi có thời cơ, vận động binh lính của Pháp ngã theo cách mạng giao nộp vũ khí...
Gác lại những câu chuyện lịch sử, thì hiện nay mặc dù là một ngôi chùa nhỏ, nghèo nhưng Bửu Hưng tự thường xuyên tổ chức những bữa cơm từ thiện, giúp đỡ những số phận cơ nhỡ. Hằng năm, vào các ngày rằm tháng Giêng, tháng 4, tháng 7 nhà chùa đều tổ chức lễ cầu an cho bá tánh và cầu siêu cho các linh hồn anh hùng liệt sĩ theo nghi thức Phật giáo.
Phạm Hoài Nhân
...
Giây phút cuối và nấm mồ chung của 9 vị anh hùng
Trước âm mưu thâm hiểm của giặc và bè lũ tay sai bán nước, những anh hùng Lâm Trung Trại một phút sa chân đã rơi vào tay giặc. Chúng giết 9 vị anh hùng rồi chôn chung họ trong một huyệt lớn tại gốc cây Gõ Cụt nơi Dốc Sỏi.
Anh hùng thất thế
Thất bại trước mục tiêu tấn công thành Sơn Đá, Lâm Trung trại bị thực dân Pháp bố ráp, vây bắt, truy kích không ngừng. Mục tiêu của bọn chúng là muốn một mẻ bắt sạch "những con cá to" trong Lâm Trung Trại để làm gương cho những cá nhân, tổ chức yêu nước người Việt.
Trước tình hình nguy cấp, Lâm Trung Trại đã quyết định tạm giải tán để đảm bảo sự an toàn cho các thành viên. Theo đó, Năm Hi chủ trương cho nghĩa quân tiêu hủy hết vũ khí, đạn dược để các thành viên ngụy trang thành người tha hương đến chốn này. Hơn nữa, Năm Hi làm vậy để tránh việc số vũ khí trên lọt vào tay giặc khi căn cứ Gò Mọi thất thủ. Lợi dụng lúc nửa đêm, nghĩa quân bí mật vận chuyển số vũ khí trên đổ hết xuống lòng sông Đồng Nai đỏ ngầu phù sa. Vị trí đổ số vũ khí trên cũng được giữ bí mật tuyệt đối. Sau lần tụ họp cuối cùng đó, những đầu lĩnh của Lâm Trung Trại chia tay nhau, tiêu tán mỗi người một ngả.
Để che mắt giặc, những anh hùng này ngụy trang với nhiều nghề khác nhau. Tuy nhiên, trước sự truy nã tàn khốc cùng những âm mưu thâm độc và sự chỉ điểm của bè lũ tay sai, lần lượt các anh hùng đều rơi vào tay giặc. Trong đó, 8 vị đứng đầu Lâm Trung Trại bị giặc bắt bao gồm: Năm Hi, Hai Lựu, Lào Lẹt, Hai Sở, Ba Vạn, Bảy Phát, Hai Danh, Ba Hầu. Cuối tháng 3 năm đó, các thành viên trên và hai anh em được mệnh danh là "song hùng" Mười Tiết, Mười Sót bị đưa ra trước tòa Áo Đỏ (Đại hình của Pháp) với tội danh "phiến loạn, cướp của, giết người".
Phiên tòa diễn ra một cách chóng vánh. Tất cả các anh hùng nằm trong nhóm lãnh đạo Lâm Trung Trại đều bị kết án tử hình. Năm Hi, Ba Hầu, Hai Lựu, Hai Sở, Lào Lẹt, Bảy Phát, Bếp Đầy, Mười Tiết, Mười Sót nằm trong danh sách bị xử tội chết. Còn lãnh án 20 năm khổ sai, lưu đày Côn Đảo có Tư Hổ, Ba Vạn. Bản án được ấn định và thi hành một cách nhanh chóng và gấp rút. Sau khi nghe tin dữ, người dân, tàn quân của Lâm Trung Trại cũng tổ chức nhiều cuộc phản đối nhưng đều bị bọn cướp nước dìm trong máu lửa.
Vào một buổi xế chiều, người dân xóm Dốc Sỏi (thôn Bình Thành nay thuộc phường Quang Vinh, TP.Biên Hòa, Đồng Nai) thấy viên quan Pháp dẫn đầu đoàn lính vác súng trên vai và mấy người mặc áo xanh khiêng nhiều cột gỗ, cuốc xẻng kéo đến vùng Gò Mô (trước cổng sân bay Biên Hòa ngày nay)
Tại đây, tên vệ úy đứng lên gò đất cao quan sát như đang tìm địa thế. Ít phút sau, tên này lệnh cho đám lính bắt phạm nhân phát quang bụi rậm thành một khoảng đất trống hơn 250m2. Sau khi đám tội án hoàn thành công việc, đám lính mã tà lại gí họng súng vào lưng, lệnh cho họ đào chín lỗ sâu trồng chín cây cột gỗ dựng thành hai hàng ngang.
Sự việc trên khiến không ít người dân tò mò xúm quanh. Nhiều người bàn tán rằng, Pháp lại cho dựng chốt, đóng quân nơi đây. Người thì cho rằng rất có thể giặc mở đường đi Bến Cá (Bình Dương) và đang đánh dấu làm mốc. Tuy nhiên, không một ai trong số họ biết được rằng, 9 cây cột kia chính là nơi kết liễu 9 vị anh hùng Lâm Trung Trại mà bấy lâu họ ngưỡng mộ.
Những lời trăng trối oai hùng
Sáng hôm sau, trời vừa hửng sáng, dân trong vùng bị đánh thức bởi tiếng xe ô tô gầm rú tại khu vực Gò Mô. Dân trong vùng hiếu kỳ pha chút lo lắng khi thấy cảnh lính nai nịt gọn gàng, tay bồng súng trước ngực, đứng thành hai hàng thẳng tắp. Sau ít phút, một chiếc xe được bọc kín bằng vải dù xanh đỗ lại. Từ cửa sau, người dân trông thấy rõ mồn một 9 tội nhân mặt mày hốc hác, xanh xao, tay bị còng, chân đeo xiềng xích xuống xe. Bước khỏi xe, 9 tội nhân bị đám lính ép đi theo một hàng thẳng.
Theo lời kể của nhiều bậc lão niên thì sau khi lính đã sắp tội phạm đâu vào đấy thì xuất hiện ông Đỗ Hữu Trí, giữ chức Biện lý và một cha đạo. Đến lúc này, người dân nơi Dốc Sỏi mới nhận ra đây là cuộc xử bắn những anh hùng Lâm Trung Trại. Tin tức nhanh chóng lan rộng, người dân kéo đến ngày một đông. Tuy nhiên, họ bị đám lính đẩy ra xa pháp trường.
Sau đó, 9 tội nhân bị giải đến 9 cột gỗ đã dựng sẵn, có đám lính giương súng đứng trấn giữ bốn bên. Ít phút sau, Đỗ Hữu Trí bước lên phía trước đọc bản án cho 9 tội nhân. Vừa dứt lời, bọn lính trói quặt tay 9 vị anh hùng Lâm Trung Trại ra sau cột gỗ. "Lúc bấy giờ, trời đã sáng hẳn. Sắc diện các tử tội đều thấy biến đổi, trông như đã mất thần. Duy chỉ có Ba Hầu, Hai Sở vẫn giữ được nét thản nhiên với gương mặt còn tươi tỉnh", trong tác phẩm Biên Hùng lược sử của Lương Văn Lựu có ghi lại như vậy.
Sau đó, viên quan Pháp cho 20 lính đứng đối mặt với tử tội cách xa hơn 20m. Như một ân huệ cuối, Biện lý Đỗ Hữu Trí cho phép tử tội được nói lời trăng trối với người thân. Và chính giây phút ấy đã đi vào lịch sử Biên Hòa khi tinh thần, khí tiết hùng dũng của những bậc anh hùng đã hòa vào hồn thiêng của xứ này và được lưu truyền mãi mãi. Được biết, ông Ba Hầu là người đầu tiên lên tiếng.
Theo Biên Hòa sử lược, ông Ba Hầu hỏi xem có vợ con của mình có ở đây không. Sau đó, vị anh hùng này hùng dũng nói to: "Ta sinh ra làm tướng, chết làm thần. Bà con ở lại mạnh giỏi". Tiếp sau đó, Hai Sở hiên ngang thách thức: "Cứ bắn ta đi. Sở này không sợ đâu. Cái chết, ta thị như quy tân gia (xem như được về nhà mới)".
Lúc đó, 7 người còn lại mặt sắc lạnh nhưng họ không nói lời nào. Tuy nhiên, đứng trước cái chết, những con người này không lộ vẻ hối tiếc, khiếp hãi. Sau đó, lính đem vải đen đến bịt mắt từng phạm nhân và trở về vị trí. Viên quan người Pháp cuối cùng cũng cất giọng hạ lệnh, 20 lính cầm súng đồng loạt quỳ một chân giữ tư thế chuẩn bị bóp cò. Khẩu lệnh thứ hai nghe lạnh lùng, toán lính đồng loạt nâng súng lên ngang mắt, ngắm. Tiếng động phát ra từ thao tác trên khiến người xem nổi da gà. Nhiều người đã ngất lịm, tiếng khóc, tiếng kêu gào phát ra từ đám đông người dân đến xem. Lệnh thứ ba được viên quan hai thao tác bằng tay. Khi tay hắn hạ xuống, một loạt súng khô khốc vang lên. 4 vị anh hùng gục đầu xuống, không một tiếng kêu.
Tiếng súng đồng loạt nổ, xé đi sự tĩnh lặng của buổi sớm mai. Chưa dừng lại, cánh tay của viên quan lại hạ xuống, một loạt súng lại cất lên, 5 vị anh hùng lại gục xuống, máu tươi từ ngực tuôn chảy nhuộm đỏ áo tù rồi nhỏ thành giọt trên mặt đất. Tiếng than khóc của người dân lại càng thảm thiết thương tâm. Cuối cùng, viên trung úy Pháp cầm súng lục đến từng tử tù giờ chỉ còn là những cái xác đỏ máu, bắn những viên đạn ân huệ. Xong đâu đấy, quan, lính ra về để lại những tội nhân khác cùng đám lính lo việc chôn xác các anh hùng thất trận.
Cũng tại đây, sau khi hồn thiêng đã hòa quyện cùng sông núi, những anh hùng một thời được nằm chung một nấm mồ. Trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, giờ đây, chùa Cô Hồn gần như là nơi duy nhất lưu giữ những thiên sử bi hùng về 9 người anh hùng yêu nước này.
Câu nói bất hủ của ông Biện lý
Theo ghi nhận của Biên Hòa lược sử, ông Biện lý Đỗ Hữu Tri trên đường ra về sau vụ hành quyết đẫm máu 9 anh hùng Lâm Trung Trại bất ngờ gặp một toán phụ nữ tỏ yá̊ cười nhạo người dân địa phương khóc than 9 anh hùng, ông Biện lý nói thẳng: "Người nước Nam bị bắn không biết xót thương lại còn đi coi và cười nhạo". Câu nói trên được các bô lão đánh giá là bất hủ vì đã làm thức tỉnh biết bao con tim đã lầm lạc trước đó.
Hà Nguyễn - Ngọc Lài
Người đưa tin - 27/12/2012
...
Nấm mồ chung của 9 hảo hán Lâm Trung Trại vẫn bí ẩn
Người dân muốn được đưa thi hài các hảo hán Lâm Trung Trại về mai táng. Tuy nhiên, họ đã bị họng súng của giặc ngăn lại. Cuối cùng, một nấm mồ chung chôn 9 nghĩa sĩ được dựng nên. Trải qua bao năm, mộ xưa nay đã mất tích. Những anh hùng chỉ còn trong sử sách.
Hồn thiêng gửi nơi Dốc Sỏi
Sau khi xử tử 9 phạm nhân bị khép tội cướp của giết người, đám lính Pháp lên xe ra về. Họ bỏ lại 9 cái xác đang gục rũ trên những cọc gỗ. Đám lính quèn và các tội nhân khác ở lại để thu dọn trường bắn. Chứng kiến sự hi sinh anh dũng của những anh hùng một đời theo lý tưởng cứu nước, người dân Dốc Sỏi quỳ gối tiễn biệt họ. Sau ít phút chuẩn bị, đám tội nhân được lệnh tháo dây trói cho 9 anh hùng Lâm Trung Trại và tiến hành công việc mai táng.
Các bô lão sống quanh chùa Cô Hồn (gần khu vực Dốc Sỏi) cho biết: "Cha ông chúng tôi kể lại rằng, sau khi chứng kiến lũ giặc bắn những nghĩa sĩ, người dân đã lao ra đòi khiêng xác các hảo hán về mai táng nhưng không được. Trước sự hung hăng của đám lính, người dân cũng không dám làm căng. Họ sợ bị khép tội tòng phạm với tử tù nên đành đứng nhìn giặc khiêng xác các anh hùng đi chôn".
Thời gian trôi đi, trải qua nhiều biến cố lịch sử, khu vực chôn cất những nghĩa sĩ dần phai nhòa trong ký ức người dân nơi đây. Hiện tại, khi được hỏi về 9 anh hùng Lâm Trung Trại, rất ít người biết đến. Vì thế, những thông tin về nơi chôn cất của các nghĩa sĩ lại càng mờ mịt hơn. Ngoài một số bô lão cao tuổi thường xuyên làm công quả tại chùa Cô Hồn, người dân bản xứ không hề nghe nói về vụ xử bắn cũng như nơi an nghỉ của các anh hùng Lâm Trung Trại.
Tìm hiểu tại chùa Cô Hồn (phường Quang Vinh, TP. Biên Hòa, Đồng Nai), chúng tôi được biết, khu vực chùa không phải là nơi chôn cất các anh hùng Lâm Trung Trại. Được biết, chùa Cô Hồn được xây dựng khá lâu sau vụ hành quyết các hảo hán ngày nào. Những bô lão làm công quả tại chùa khẳng định: Vì thương tiếc và cảm phục tinh thần đấu tranh của những anh hùng nghĩa sĩ, người dân Dốc Sỏi đã dựng một am lá để hương hỏa cho họ.
Tuy nhiên, vị trí chính xác nơi chôn cất 9 anh hùng giờ rất khó xác định. Bởi đất đai và phong cảnh ở đây đã đổi thay nhiều so với trước đây. Tuy nhiên, người xưa cũng như các giai thoại kể lại rằng, 9 hảo hán bị xử bắn rồi được chôn chung tại gốc cây Gõ "cụt" thuộc khu vực sân bay Biên Hòa.
Trong cuốn Biên Hòa lược sử ký, tác giả Lương Văn Lựu cũng khẳng định cây Gõ "cụt" chính là nơi an nghỉ của 9 vị anh hùng. Cũng theo tài liệu trên, phía tây của Dốc Sỏi có một cây Gõ cổ thụ vì bị sét đánh gẫy ngọn nên được người dân trong vùng gọi là cây Gõ "cụt". Cũng từ sự sống sót kỳ lạ sau khi bị sét phạt ngang, người dân cho rằng, đây là loài cây thiêng. Vì coi là nó linh thiêng nên thường ngày ít ai dám bén mảng đến gần gốc cây cổ thụ này. Chính nơi đây được các tội nhân có nhiệm vụ lo hậu sự chọn làm nhà chung cho các anh hùng Lâm Trung Trại.
Cảm thương trước sự ra đi của những anh hùng thất thế, các tội nhân khác xin giặc cho mỗi người anh em Lâm Trung Trại nằm một huyệt riêng biệt. Tuy nhiên, đám lính Pháp không đồng ý. Cuối cùng, họ đành đào một hầm sâu làm mồ chung cho 9 thi thể anh hùng. Trong khi đó, như một nỗ lực cuối cùng, người dân địa phương gom góp tiền mua 9 manh chiếu mới thay cho áo quan để các vị anh hùng an nghỉ. Cuối cùng, không nhang khói, không trống nhạc tiễn đưa, 9 hảo hán nằm chung một ngôi mộ trong tiếng khóc than của người dân.
Vẫn chưa tìm thấy mộ của các anh hùng
Dưới sự cấm đoán của giặc, người dân yêu nước không thể hương khói cho 9 vị anh hùng thất thế. Tuy nhiên, sau khi khóc tiễn đưa họ về với đất mẹ, nửa đêm, dân địa phương bí mật sắm lễ cúng đến thăm viếng. Được biết, các vị anh hùng cũng được người dân và các thành viên khác của trại bí mật để tang trong một thời gian dài sau đó.
Từ ngày định mệnh trên, người dân tưởng nhớ các vị anh hùng Lâm Trung Trại một cách bí mật. Ban đầu, việc nhang khói, tưởng niệm, cúng bái chỉ được tiến hành vào ban đêm. Về sau, nhận thấy thực dân Pháp đã quên đi các anh hùng từng khiến chúng điên đảo, dân địa phương quyết định công khai hương khói. Theo đó, dân địa phương cho dựng một am nhỏ tại gốc cây đa lớn ở đầu Dốc Sỏi để thờ Phật và cầu siêu cho những người đã khuất. Vì mục đích xây dựng để hương khói những người đã khuất, am cỏ trên được dân địa phương quen gọi là chùa Cô Hồn. Từ đó, nơi đây được xem là nơi thờ tự, lưu dấu hồn thiêng của 9 vị anh hùng Lâm Trung Trại.
Trong cuốn Biên Hòa sử lược của Lương Văn Lựu có ghi, chùa Cô Hồn trải qua nhiều biến cố và gắn liền với những sự kiện lịch sử mang tính trọng đại của đia phương. Chùa được xây dựng vào năm 1918 ở ngã ba Dốc Sỏi, xóm Bình Thành xưa. Sau đó hai năm, Sở hỏa xa (thời Pháp thuộc) mở đường ray qua vị trí chùa để chở đá ở núi Lò Gạch về xây dựng đường. Chính vì vậy, chùa buộc phải dời về phía Tây Nam so với vị trí ban đầu. Trong lần di dời địa điểm này, chùa được xây dựng khang trang hơn và một vị tu sĩ đã đến nhận chức trụ trì. Từ đây, chùa Cô Hồn được vị trụ trì đổi lại hiệu là Bửu Hưng Tự.
Thông tin về chùa Cô Hồn, người dân phường Quang Vinh cũng như những cá nhân thường xuyên công quả tại chùa nhận định: "Chùa đúng là nơi thờ tự những anh hùng Lâm Trung Trại. Tuy nhiên, chúng tôi chưa nghe ai nói rằng đây là nấm mồ chung của 9 vị anh hùng bị hành quyết". Được biết, từ lâu, người dân địa phương đã xem chùa như nơi lưu giữ hồn thiêng và những ký ức về những anh hùng Lâm Trung Trại nổi tiếng với vụ phá Khám Biên Hòa gần 1 thế kỷ trước.
Khu vực được sử sách nhận định là Dốc Sỏi - pháp trường thực hiện buổi hành quyết 9 người đứng đầu Lâm Trung Trại giờ đã trở thành đại lộ Nguyễn Ái Quốc (phường Quang Vinh, TP.Biên Hòa). Ngược với những miêu tả đầy hoang sơ của tác giả Lương Văn Lựu, ngày nay, Dốc Sỏi là những công trình kiến trúc, khu giải trí, kinh doanh hiện đại. Thời gian trôi đi, quá trình hiện đại hóa gần như đã đổi thay con đường Dốc Sỏi chạy qua pháp trường năm nào. Vị trí gốc cây Gõ "cụt" cổ thụ, nơi được nhận định là nấm mồ chung của các vị anh hùng thất thế cũng không còn dấu tích.
Theo đó, những đầu mối dẫn chúng tôi trên con đường tìm kiếm hình hài của những anh hùng "Lương Sơn Bạc" đất Biên Hòa xưa đều hướng về chùa Cô Hồn. Tại đây, dẫu đất xưa đổi dời nhưng hồn thiêng, dũng khí và sự ra đi của những anh hùng Lâm Trung Trại trong buổi đầu đấu tranh cứu nước vẫn như còn vang danh mãi mãi.
Di tích lịch sử cách mạng
Bửu Hưng Tự không chỉ là nơi ghi dấu buổi hành quyết đẫm máu đối với các anh hùng Lâm Trung Trại mà còn là một di tích lịch sử cách mạng. Theo đó, chùa cũng là nơi diễn ra Hội nghị cán bộ Đảng ở Biên Hòa vào tháng 6/1945 do đồng chí Hoàng Minh Châu trụ trì. Đây là hội nghị quyết định những vấn đề quan trọng về chủ trương, chuẩn bị cho nhân dân Biên Hòa nổi dậy giành chính quyền trong cách mạng Tháng 8/1945. Chùa được UBND tỉnh Đồng Nai xếp hạng di tích cách mạng theo quyết định số 62/QĐ UBT ngày 16/2/1979.
Hà Nguyễn - Ngọc Lài
Người đưa tin - 27/12/2012
....
Lâm Trung Trại và những anh hùng “thủy hử” đất Đồng Nai
Lâm Trung Trại được hình thành từ những ngày đầu thực dân Pháp xâm lược Đồng Nai. Thời ấy, người dân nơi đây tự hào ví hội này như Lương Sơn Bạc của Việt Nam.
Chọn Gò Mọi làm căn cứ, duy trì hoạt động, Lâm Trung Trại một thời từng khiến thực dân Pháp khuynh đảo. Tuy nhiên, cho đến nay, còn ít tài liệu đề cập đến nguồn gốc và sự hình thành hội kín anh hùng này.
Anh hùng Lương Sơn Bạc đất Biên Hòa
Sau Hiệp ước Pa-tơ-nốt (năm 1884), giai cấp phong kiến lúc bấy giờ tiếp tục ra lệnh bãi binh trên toàn quốc. Nhưng chính sách trên không ngăn cản được lòng yêu nước căm thù giặc của những người yêu nước. Các phong trào yêu nước vẫn tiếp tục phát triển một cách bí mật. Dù đấu tranh kiên cường và gặt hái một số thành công nhưng các phong trào trên đều bị thất bại. Và sự thất bại đã đẩy các phong trào yêu nước vào những hội kín được gọi là Thiên Địa hội.
Theo các tài liệu lịch sử, Thiên Địa hội vốn xuất phát từ Bạch Liên Giáo của Trung Quốc vào thời kỳ Mãn Thanh. Trong nội bộ giáo phái này, có nhiều chi phái mượn màu sắc tôn giáo, lợi dụng sự mê tín của Hán tộc với mục đích khuynh đảo nhà Thanh. Thiên Địa hội bắt đầu "vượt biên" vào nước ta từ đầu thế kỷ XIX do Hà Hỉ Văn đứng đầu. Người này tiếp tục nuôi chí phản Thanh, phục Minh.
Tuy nhiên, sự tuyên truyền của Thiên Địa hội tại Việt Nam bị ngăn cấm rất khắt khe. Thời Pháp thuộc, thực dân đế quốc mạnh tay trong việc ngăn chặn sự phát triển của các hội kín. Rồi, Thiên Địa hội dần lui vào quên lãng. Tuy nhiên, sau này, lòng yêu nước, tinh thần chống giặc ngoại xâm của những chí sĩ yêu nước lại vùng dậy. Họ hoạt động chống giặc theo kiểu Thiên Địa hội.
Trong công cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, đất Đồng Nai xưa cũng hưởng ứng phong trào yêu nước của Thiên Địa hội dưới một tổ chức có tên Lâm Trung Trại. Kể lại chuyện của những anh hùng thời loạn, các bậc cao niên ngụ quanh khu vực chùa Bửu Hưng cho biết, Lâm Trung Trại là nơi tập trung của những bậc anh hùng, hảo hán thời loạn lạc. Các bậc cao niên cũng chỉ được nghe ông cha kể về họ như một huyền thoại về các anh hùng Lương Sơn Bạc bên Tàu.
Theo các tài liệu lịch sử, Lâm Trung Trại là nơi tụ nghĩa của các bậc anh hùng, ái quốc. Tác giả Lương Văn Lựu trong tác phẩm Biên Hòa lược sử đã viết: "Dân Biên Hòa cũng hưởng ứng phong trào chống Pháp của Thiên Địa hội. Rất nhiều các tay anh chị, hảo hán ở nông thôn, võ nghệ tinh thông, đầy lòng hào hiệp, không nặng tình cảm gia đình kết hợp nhau thành một đảng lấy hiệu danh riêng là Lâm Trung Trại".
Cũng theo tài liệu, Lâm Trung Trại chọn núi Gò Mọi thuộc xã Đại An (huyện Vĩnh Cửu, Đồng Nai), nơi có địa hình hiểm trở, dễ thủ khó công làm căn cứ. Hơn thế, sinh sống tại Gò Mọi chỉ toàn những dân tộc thiểu số nên giặc Pháp không để ý. Đây được coi là một căn cứ lí tưởng. Về công có thể dùng thủy binh theo ngọn Rạch Đông ra Biên Hòa, thủ có thể dựa vào rừng núi theo thế ỷ dốc.
Thành phần đứng đầu của nghĩa quân được tuyển chọn theo tiêu chuẩn: Uy tín, đức độ tài năng, võ thuật và văn hóa. Ban đầu, đứng ra sáng lập Lâm Trung Trại có 18 vị được người dân xưng tụng là "anh hùng" gồm: Năm Hi, Ba Hổ, Ba Hầu, Hai Lựu, Bảy Đen, Sáu Huyền, Ba Vạn, Hai Danh, Bảy Phát, Tám Tâm, Hai Mạnh, Ba Thứ, Năm Thanh, Ba Nghi, Tư Rùa, Hai Sở, Mười Lợi, Hai Cầm. Ông Năm Hi được chọn làm lãnh đạo trại, dưới trướng là gồm 9 thành viên đều là những anh hùng, hảo hán lừng danh một cõi.
Theo tác giả Lương Văn Lựu, ngoài tài võ nghệ, văn chương hơn đời, Năm Hi còn giỏi về thuật số, chiêm tinh. Với những thành tích trên, Năm Hi được tín nhiệm ngồi ghế đầu lĩnh Lâm Trung Trại. Dưới trướng của ông có Ba Hầu, nổi tiếng can trường vì căm phẫn sự áp bức của thực dân Pháp đã từ giã gia đình, từ chức Hương hào, gia nhập trại Lâm Trung bằng câu nói bất hủ: "Ta sinh vi tướng, tử vi thần".
Một nhân vật khác được ví như Võ Tòng của Lâm Trung Trại là Tư Hổ. Người này được ghi nhận là một tay kiếm cung bậc nhất thời bấy giờ. Được biết, Tư Hổ chính là đệ tử trân truyền của Võ sư Chung, một đạo sĩ được dân chúng suy tôn là Phật sống trên núi Gò Mọi. Người xưa còn truyền lại sự kiện khiến ai cũng phải thán phục. Ngày ấy, một mình Tư Hổ vượt tường lẻn vào nhà làng Tân Trạch (nơi lính Pháp giam giữ thanh niên Biên Hòa làm lính đánh thuê trong thế chiến thứ 2) kết liễu tên Việt gian khét tiếng với tuyệt kỹ Tỏa hầu cầm nã thủ (một tuyệt kỹ võ công dùng 3 ngón tay bóp đứt cuống họng đối thủ), giải thoát nhiều thanh niên bị giam hãm.
Những ám hiệu bí mật
Trong sự bố ráp nghiêm ngặt của thực dân Pháp, Lâm Trung Trại phải duy trì hoạt động bí mật bằng hệ thống ám hiệu, mật khẩu khác nhau, chủ yếu theo cách của Thiên Địa hội trước kia. Đó là thông qua hệ thống khẩu hiệu bằng thể ca dao. Các mật khẩu này chỉ được phổ biến trong nội bộ thành viên trại.
Ngoài ra, để tiếp xúc với các thành viên của trại ẩn thân trong làng, ấp, họ còn dùng mật hiệu là cây dù vải cán có hình móc câu. Đây là vật bất ly thân đối với người đàn ông thời bấy giờ. Chính sự phổ biến của những mật khẩu trên đã đánh lạc hướng, qua mặt được bọn tay sai, giặc cướp nước. "Khách đến nhà tùy cách móc dù trên cánh cửa mà chủ nhà nhận ra "đồng chí" và biết rõ ý hướng của mỗi người", tài liệu của Lương Văn Lựu có nhắc đến vấn đề này.
Theo đó, nếu chiếc dù được móc bên trái cửa sẽ báo hiệu khách chính là thành viên của trại. Chiếc dù được móc bên phải so với cửa chính cũng là mật hiệu cho biết khách đang có việc cơ mật cần bàn, báo hiệu chủ nhà phải nhanh chuẩn bị địa điểm, thời gian để họp bàn. Hay móc cán dù xoay trở ra ngoài cửa, báo hiệu khách chỉ ghé qua và không có việc cơ mật. Ngược lại, nếu cán dù được quay móc câu vào trong nhà, báo hiệu khách cần lưu lại nhà hoạt động lâu dài. Gia chủ cần đảm bảo mọi mặt từ an ninh đến việc tổ chức liên lạc, hoạt động bí mật trong địa phương.
Ngoài ra, cách hóa trang cũng là mật hiệu quen thuộc của các thành viên. Nếu các thành viên xắn quần ống thấp ống cao tức là giặc đã phát hiện căn cứ. Chúng chuẩn bị bố ráp, căn cứ cần phải nhanh chóng di chuyển. Việc phơi, treo đồ, khăn, vải có màu đỏ trước nhà cũng được xem như dấu hiệu của việc trong khu vực hoạt động sắp có giặc hành quân, có tay sai giặc ẩn mình...
Theo lời kể của nhiều bậc cao niên tại đây, Lâm Trung Trại còn sử dụng nhiều hệ thống ám, mật hiệu, mật mã khác nữa. Nhưng vì điều kiện sử dụng bí mật nên chỉ những người quan trọng mới được biết. Hơn nữa thời gian quá lâu nên những mật hiệu kia gần như đã không còn ai nhớ. Hiện chỉ còn vài người nhớ được ít mật hiệu dưới dạng những bài ca dao, vè như: "Quần xắn ống thấp ống cao. Bộ đi vội vã, có tàu của Tây" hay "Dù máng bên tả - Đảng viên. Đi việc cơ mật nói riêng chủ nhà",...
Theo lời kể của người cao tuổi thì lúc mới thành lập, vũ khí trong trại hết sức thô sơ, lạc hậu. Họ chủ yếu sử dụng các loại đao kiếm, cung tên, giáo mác. Về sau, theo chủ trương hiện đại hóa vũ khí của đầu lĩnh Năm Hi, trại cũng trang bị được một số súng, thậm chí có những loại súng hiện đại từ tay thực dân Pháp.
Cụ Huỳnh Hoàng Tín, 78 tuổi ngụ phường Quang Vinh, TP. Biên Hòa kể: "Tôi nghe những người đi trước kể rằng để có súng tốt, các thành viên trong Lâm Trung Trại đã trà trộn vào dân ấp, mở quán nước, quán chè, quán cháo rồi cho những cô gái đẹp đứng bán. Đó chính là mỹ nhân kế của trại. Phần lớn số súng của trại đều được trại đoạt lấy khi các cô gái tri hô trước sự "háo sắc" của bọn giặc. Số khác, Lâm Trung Trại tìm cách lén mua lại từ kho vũ khí của giặc qua những tên quản kho háo sắc, háo vàng".
Được tôn vinh là những anh hùng, hào kiệt, mang trên vai trọng trách cứu nước, tổ chức Lâm Trung Trại được người dân nhiệt tình ủng hộ. Không bao lâu sau, số thành viên trong trại nhanh chóng tăng vọt. Số người về tụ nghĩa không ngừng nhân rộng. Từ đây, Lâm Trung Trại bắt đầu định hướng cho mình trên con đường cứu nước còn quá nhiều chông gai.
"Lò luyện"tinh thần yêu nước
Vì là nơi tụ nghĩa của những hào kiệt có khí phách và tinh thông võ nghệ với mục đích thoát khỏi xiềng xích nô lệ, Lâm Trung Trại từng được người dân xứ Biên Hòa xưa xem như Lương Sơn Bạc của đất Đồng Nai. Dẫu đấu tranh một cách tự giác, tự phát bằng những trang bị thô sơ, Lâm Trung Trại cũng là nơi vực dậy tinh thần quật cường, lòng yêu nước, kiên quyết đấu tranh đòi quyền tự do của người dân Đồng Nai.
Hà Nguyễn - Ngọc Lài
Người đưa tin - 27/12/2012